Hòa thượng Thích Quảng Đức, pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp, thế danh Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, thuộc miền Trung Việt Nam, trong một gia đình có 7 anh chị em, thân phụ là cụ Lâm Hữu Ứng và mẫu thân là cụ bà Nguyễn Thị Nương.

Năm 15 tuổi, Hòa thượng thọ giới Sa di, năm 20 tuổi thọ Tỳ kheo giới. Thọ giới xong, Hòa thượng vào một ngọn núi Ninh Hòa phát nguyện tịnh tu ba năm, bặt dứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài (về sau ngài đã trở lại ngọn núi này để thành lập một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc). Sau khóa tu 3 năm, ngài rời núi để bắt đầu công cuộc hoằng dương Phật pháp, nhưng hai năm đầu, Hòa thượng đã thực hiện pháp hạnh đầu đà, một mình với chiếc bình bát khất thực đó đây để gieo duyên lành với chúng sanh. Sau hai năm mãn nguyện, ngài trở lại nhập thất tại chùa Sắc tứ Thiên An tại Ninh Hòa, gần thành phố Nha Trang.

Năm 1932, Hòa thượng được bổ nhiệm làm chức kiểm tăng tại chi hội Phật giáo Ninh Hòa, sau đó nhận nhiệm vụ kiểm tăng trong tỉnh Khánh Hòa. Trong suốt thời gian ở miền Trung Việt Nam, ngài đã tiến hành kiến tạo và trùng tu 14 ngôi chùa. Năm 1934, rời Khánh Hòa vào miền Nam để giáo hóa, ngài cũng từng đến Campuchia hai năm để học hỏi và nghiên cứu kinh điển theo truyền thống Theravada. Cũng như ở miền Trung, 20 năm hành đạo ở miền Nam, ngài đã khai sơn và trùng tu 17 ngôi chùa. Như vậy, ngài đã có công xây dựng hoặc trùng tu tất cả 31 ngôi chùa.

Hòa thượng được chư Tăng và Phật tử kính ngưỡng bởi giới hạnh nghiêm minh, tuệ giác sâu sắc, cùng tấm lòng từ bi không phân biệt. Đạo nghiệp của Ngài không chỉ thể hiện ở việc xây chùa, lập tự, mà quan trọng hơn là hành động hướng dẫn tăng ni, Phật tử tu học đúng theo chánh pháp, giữ gìn tinh thần lục hòa cộng trụ trong Tăng đoàn.

Ngôi chùa cuối cùng là nơi ngài trụ trì là chùa Quan Thế Âm ở xã Phú Nhuận, Gia Định, nay con đường này đã đổi thành tên của Hòa thượng.Ngài đã từng giữ chức vụ Phó Trị sự và Trưởng ban Nghi lễ của Giáo Hội Tăng già Nam Việt trong một thời gian khá lâu. Trước đó, theo theo lời thỉnh cầu của Ban Trị sự, ngài có lúc đã nhận nhiệm vụ trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam Việt. Khi trụ sở này dời về chùa Xá Lợi, ngài xin thôi việc để có đủ thời gian an tâm tu niệm.

Trải qua gần trọn cuộc đời trong sự tu tập miên mật, hành đạo thanh tịnh, lấy hạnh nguyện lợi tha làm phương châm sống. Trên bước đường tu học, Hòa thượng nổi bật với sự giản dị, khiêm cung và tinh thần phụng sự không mệt mỏi. Dù trải qua nhiều biến động của thời cuộc, Ngài vẫn một lòng giữ vững đạo tâm, luôn hướng về sự an lành của chúng sinh và sự trường tồn của chánh pháp.

Đỉnh cao trong cuộc đời và đạo nghiệp của Hòa thượng Thích Quảng Đức chính là hành động tự thiêu ngày 11/6/1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám, TP.HCM). Trước hoàn cảnh Phật giáo bị đàn áp nặng nề, quyền tự do tín ngưỡng bị chà đạp, trong cuộc biểu tình ôn hòa của gần 1.000 Tăng Ni nhằm kêu gọi sự bình đẳng tôn giáo và yêu cầu chính quyền tôn trọng lá cờ Phật giáo, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã quán chiếu sâu sắc rằng Chánh pháp chính là ngọn đuốc thiêng liêng soi đường cho thế nhân, còn thân tứ đại ngũ uẩn chỉ là giả hợp vô thường. Với tâm nguyện cao cả đã được ấp ủ từ lâu, Ngài quyết định thực hành đại hạnh thiêu thân cúng dường Tam bảo, như một lời kêu gọi thức tỉnh lương tri và khơi dậy tinh thần trách nhiệm từ chính quyền. Hành động hy sinh bi tráng này cũng nhằm thúc đẩy việc đáp ứng năm nguyện vọng chính đáng của Phật giáo, đồng thời yêu cầu giải tỏa cho ba ngôi chùa tại Huế đang bị vây hãm lúc bấy giờ.

Trong “Lời nguyện tâm huyết”, Hòa thượng đã viết: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây: (1) Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn. (2) Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt. (3) Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác gian. (4) Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc… Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở. Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp”…

Bài di bút của ngài trước ngày thực hiện đại nguyện vị pháp thiêu thân thật xúc động:

“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh ai còn ‘ngốc’
Tro trắng phẳng san hố bất bình.
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thức nương về giúp sinh linh
Hỡi ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình”.

 

Ngồi kiết già ở giữa ngã tư, ngài đã tự tay châm ngọn lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân mình, ngài vẫn an nhiên chắp tay tĩnh tọa, gương mặt không lộ vẻ hãi sợ, lo âu. Nhớ lại những khoảnh khắc xúc động khi chứng kiến khoảnh khắc Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu, Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng nói: “Ngài từ trên xe bước xuống, ngay giữa ngã tư ngồi xuống tự tay châm lửa, vì lúc đó hộp quẹt trong túi ướt xăng nên ngài bật không cháy. Ngài nhìn qua chư tăng, hòa thượng Đức Nghiệp ném hộp quẹt cho ngài, ngài mỉm cười và bật hộp quẹt lên. Mọi người nhìn thấy ngài ngồi trong lửa nhưng thanh thản đến khi lửa tàn”.

15 phút sau, lửa tàn và ngài đã ngã xuống, trên tay vẫn còn quyết ấn Cam lồ. Nhục thân của Bồ tát Thích Quảng Đức được thỉnh về chùa Xá Lợi làm tang lễ. Sau sự kiện tự thiêu bi hùng của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào năm 1963, hình ảnh và tinh thần của Ngài đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước. Nhằm tưởng niệm và ghi nhận công hạnh vĩ đại ấy, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất – sau khi chính thức được thành lập – đã tổ chức một phiên họp trang trọng của Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống và Hóa Đạo ngay trước Đại lễ Phật Đản năm 1964. Tại đây, toàn thể chư tôn đức đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Hòa thượng Thích Quảng Đức pháp vị là Bồ Tát, nhằm tôn vinh tinh thần từ bi, vô úy và hạnh nguyện tự thiêu vì đạo pháp, dân tộc của Ngài.

Một điều vô cùng đặc biệt, tuy thi hài của Hòa thượng sau đó đã được hỏa táng lại nhưng trái tim của ngài vẫn còn nguyên, vượt khỏi quy luật vật lý thông thường. Trái tim ấy trở thành biểu tượng thiêng liêng của lòng từ bi, trí tuệ và ý chí bất khuất của một bậc chân tu. Đó không chỉ là trái tim của một con người, mà là trái tim của đạo pháp, của lòng yêu thương và sự dấn thân vì chân lý, vẫn mãi đập trong lòng bao thế hệ Phật tử và nhân loại. Sau nhiều năm được bảo quản và lưu giữ trang nghiêm tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, GHPGVN sẽ cung thỉnh xá lợi trái tim Bồ Tát Thích Quảng Đức về tôn trí tại Việt Nam Quốc Tự – TP. Hồ Chí Minh, nhân dịp Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025. Sau đó, xá lợi trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức sẽ được tôn trí phụng thờ vĩnh viễn tại bảo tháp Đa Bảo – công trình kỷ niệm Pháp nạn 1963, trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự. Đây là một bước ngoặt lớn, nhằm bảo tồn và tôn vinh xá lợi, đồng thời khẳng định trách nhiệm gìn giữ di sản Phật giáo của dân tộc.

Hơn 60 năm sau, hành động vị pháp thiêu thân của Bồ Tát Thích Quảng Đức vẫn còn vẹn nguyên giá trị sâu sắc. Sự chuyển hóa thân xác thành ánh sáng chánh pháp từ ngọn lửa tự thiêu của Hòa thượng không làm bùng cháy oán thù, mà thắp lên ngọn đèn chánh tín, cảnh tỉnh con người và kêu gọi một xã hội công bằng, từ bi hơn. Tấm thân Ngài trở thành biểu tượng vĩnh cửu của bất bạo động, hy sinh, và đại hùng – đại lực – đại từ bi của nhà Phật.

Hòa thượng Thích Quảng Đức, pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp, thế danh Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, thuộc miền Trung Việt Nam, trong một gia đình có 7 anh chị em, thân phụ là cụ Lâm Hữu Ứng và mẫu thân là cụ bà Nguyễn Thị Nương.

Năm 15 tuổi, Hòa thượng thọ giới Sa di, năm 20 tuổi thọ Tỳ kheo giới. Thọ giới xong, Hòa thượng vào một ngọn núi Ninh Hòa phát nguyện tịnh tu ba năm, bặt dứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài (về sau ngài đã trở lại ngọn núi này để thành lập một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc). Sau khóa tu 3 năm, ngài rời núi để bắt đầu công cuộc hoằng dương Phật pháp, nhưng hai năm đầu, Hòa thượng đã thực hiện pháp hạnh đầu đà, một mình với chiếc bình bát khất thực đó đây để gieo duyên lành với chúng sanh. Sau hai năm mãn nguyện, ngài trở lại nhập thất tại chùa Sắc tứ Thiên An tại Ninh Hòa, gần thành phố Nha Trang.

Năm 1932, Hòa thượng được bổ nhiệm làm chức kiểm tăng tại chi hội Phật giáo Ninh Hòa, sau đó nhận nhiệm vụ kiểm tăng trong tỉnh Khánh Hòa. Trong suốt thời gian ở miền Trung Việt Nam, ngài đã tiến hành kiến tạo và trùng tu 14 ngôi chùa. Năm 1934, rời Khánh Hòa vào miền Nam để giáo hóa, ngài cũng từng đến Campuchia hai năm để học hỏi và nghiên cứu kinh điển theo truyền thống Theravada. Cũng như ở miền Trung, 20 năm hành đạo ở miền Nam, ngài đã khai sơn và trùng tu 17 ngôi chùa. Như vậy, ngài đã có công xây dựng hoặc trùng tu tất cả 31 ngôi chùa.

Hòa thượng được chư Tăng và Phật tử kính ngưỡng bởi giới hạnh nghiêm minh, tuệ giác sâu sắc, cùng tấm lòng từ bi không phân biệt. Đạo nghiệp của Ngài không chỉ thể hiện ở việc xây chùa, lập tự, mà quan trọng hơn là hành động hướng dẫn tăng ni, Phật tử tu học đúng theo chánh pháp, giữ gìn tinh thần lục hòa cộng trụ trong Tăng đoàn.

Ngôi chùa cuối cùng là nơi ngài trụ trì là chùa Quan Thế Âm ở xã Phú Nhuận, Gia Định, nay con đường này đã đổi thành tên của Hòa thượng.Ngài đã từng giữ chức vụ Phó Trị sự và Trưởng ban Nghi lễ của Giáo Hội Tăng già Nam Việt trong một thời gian khá lâu. Trước đó, theo theo lời thỉnh cầu của Ban Trị sự, ngài có lúc đã nhận nhiệm vụ trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam Việt. Khi trụ sở này dời về chùa Xá Lợi, ngài xin thôi việc để có đủ thời gian an tâm tu niệm.

Trải qua gần trọn cuộc đời trong sự tu tập miên mật, hành đạo thanh tịnh, lấy hạnh nguyện lợi tha làm phương châm sống. Trên bước đường tu học, Hòa thượng nổi bật với sự giản dị, khiêm cung và tinh thần phụng sự không mệt mỏi. Dù trải qua nhiều biến động của thời cuộc, Ngài vẫn một lòng giữ vững đạo tâm, luôn hướng về sự an lành của chúng sinh và sự trường tồn của chánh pháp.

Đỉnh cao trong cuộc đời và đạo nghiệp của Hòa thượng Thích Quảng Đức chính là hành động tự thiêu ngày 11/6/1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám, TP.HCM). Trước hoàn cảnh Phật giáo bị đàn áp nặng nề, quyền tự do tín ngưỡng bị chà đạp, trong cuộc biểu tình ôn hòa của gần 1.000 Tăng Ni nhằm kêu gọi sự bình đẳng tôn giáo và yêu cầu chính quyền tôn trọng lá cờ Phật giáo, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã quán chiếu sâu sắc rằng Chánh pháp chính là ngọn đuốc thiêng liêng soi đường cho thế nhân, còn thân tứ đại ngũ uẩn chỉ là giả hợp vô thường. Với tâm nguyện cao cả đã được ấp ủ từ lâu, Ngài quyết định thực hành đại hạnh thiêu thân cúng dường Tam bảo, như một lời kêu gọi thức tỉnh lương tri và khơi dậy tinh thần trách nhiệm từ chính quyền. Hành động hy sinh bi tráng này cũng nhằm thúc đẩy việc đáp ứng năm nguyện vọng chính đáng của Phật giáo, đồng thời yêu cầu giải tỏa cho ba ngôi chùa tại Huế đang bị vây hãm lúc bấy giờ.

Trong “Lời nguyện tâm huyết”, Hòa thượng đã viết: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây: (1) Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn. (2) Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt. (3) Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác gian. (4) Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc… Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở. Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp”…

Bài di bút của ngài trước ngày thực hiện đại nguyện vị pháp thiêu thân thật xúc động:

“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh ai còn ‘ngốc’
Tro trắng phẳng san hố bất bình.
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thức nương về giúp sinh linh
Hỡi ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình”.

 

Ngồi kiết già ở giữa ngã tư, ngài đã tự tay châm ngọn lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân mình, ngài vẫn an nhiên chắp tay tĩnh tọa, gương mặt không lộ vẻ hãi sợ, lo âu. Nhớ lại những khoảnh khắc xúc động khi chứng kiến khoảnh khắc Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu, Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng nói: “Ngài từ trên xe bước xuống, ngay giữa ngã tư ngồi xuống tự tay châm lửa, vì lúc đó hộp quẹt trong túi ướt xăng nên ngài bật không cháy. Ngài nhìn qua chư tăng, hòa thượng Đức Nghiệp ném hộp quẹt cho ngài, ngài mỉm cười và bật hộp quẹt lên. Mọi người nhìn thấy ngài ngồi trong lửa nhưng thanh thản đến khi lửa tàn”.

15 phút sau, lửa tàn và ngài đã ngã xuống, trên tay vẫn còn quyết ấn Cam lồ. Nhục thân của Bồ tát Thích Quảng Đức được thỉnh về chùa Xá Lợi làm tang lễ. Sau sự kiện tự thiêu bi hùng của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào năm 1963, hình ảnh và tinh thần của Ngài đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước. Nhằm tưởng niệm và ghi nhận công hạnh vĩ đại ấy, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất – sau khi chính thức được thành lập – đã tổ chức một phiên họp trang trọng của Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống và Hóa Đạo ngay trước Đại lễ Phật Đản năm 1964. Tại đây, toàn thể chư tôn đức đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Hòa thượng Thích Quảng Đức pháp vị là Bồ Tát, nhằm tôn vinh tinh thần từ bi, vô úy và hạnh nguyện tự thiêu vì đạo pháp, dân tộc của Ngài.

Một điều vô cùng đặc biệt, tuy thi hài của Hòa thượng sau đó đã được hỏa táng lại nhưng trái tim của ngài vẫn còn nguyên, vượt khỏi quy luật vật lý thông thường. Trái tim ấy trở thành biểu tượng thiêng liêng của lòng từ bi, trí tuệ và ý chí bất khuất của một bậc chân tu. Đó không chỉ là trái tim của một con người, mà là trái tim của đạo pháp, của lòng yêu thương và sự dấn thân vì chân lý, vẫn mãi đập trong lòng bao thế hệ Phật tử và nhân loại. Sau nhiều năm được bảo quản và lưu giữ trang nghiêm tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, GHPGVN sẽ cung thỉnh xá lợi trái tim Bồ Tát Thích Quảng Đức về tôn trí tại Việt Nam Quốc Tự – TP. Hồ Chí Minh, nhân dịp Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025. Sau đó, xá lợi trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức sẽ được tôn trí phụng thờ vĩnh viễn tại bảo tháp Đa Bảo – công trình kỷ niệm Pháp nạn 1963, trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự. Đây là một bước ngoặt lớn, nhằm bảo tồn và tôn vinh xá lợi, đồng thời khẳng định trách nhiệm gìn giữ di sản Phật giáo của dân tộc.

Hơn 60 năm sau, hành động vị pháp thiêu thân của Bồ Tát Thích Quảng Đức vẫn còn vẹn nguyên giá trị sâu sắc. Sự chuyển hóa thân xác thành ánh sáng chánh pháp từ ngọn lửa tự thiêu của Hòa thượng không làm bùng cháy oán thù, mà thắp lên ngọn đèn chánh tín, cảnh tỉnh con người và kêu gọi một xã hội công bằng, từ bi hơn. Tấm thân Ngài trở thành biểu tượng vĩnh cửu của bất bạo động, hy sinh, và đại hùng – đại lực – đại từ bi của nhà Phật.