Lậu hoặc là gì? 7 pháp đoạn trừ lậu hoặc trong Phật giáo

15/10/2025 17:48:35 5497 lượt xem

Trong đời sống, ai trong chúng ta cũng từng thấy mình rơi vào những cảm xúc tiêu cực như tham lam, giận dữ, lo sợ, hoặc mê muội. Những dòng tâm ấy tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại khiến con người khổ đau, luân hồi không dứt. Đức Phật gọi đó là “lậu hoặc” , những nhiễm nhiễu rỉ chảy trong tâm, khiến trí tuệ bị che mờ và lòng an nhiên không thể hiển lộ.

Hiểu rõ lậu hoặc là gì chính là bước đầu trên con đường giải thoát. Và muốn chấm dứt khổ đau, người học Phật cần nhận diện và đoạn trừ lậu hoặc, như tát cạn dòng nước đục để thấy đáy hồ tâm trong sáng.

Lậu hoặc là gì?

Lậu hoặc – Cội nguồn phiền não

Lậu hoặc là gì?

“Lậu hoặc” (tiếng Pali: āsava, tiếng Phạn: āsrava) mang nghĩa “chảy ra”, “thấm rò rỉ”. Trong Kinh điển, “lậu” ví như những dòng nước dơ rỉ ra từ bình nứt, chỉ tâm nhiễm nhiễu, còn “hoặc” là mê lầm.
Vì vậy, lậu hoặc là những dòng mê hoặc chảy không ngừng trong tâm thức, khiến con người không thể giữ được sự trong sạch của trí tuệ và đạo hạnh.

Theo thuyết Duyên khởi, mọi pháp đều do nhân duyên mà sinh. Lậu hoặc cũng vậy, nó không tự nhiên mà có, mà khởi lên từ vô minh và ái dục.
Khi con người không thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã của vạn pháp (vô minh), liền sinh ra ái là yêu ghét, chấp thủ. Từ ái mà có thủ, từ thủ mà sinh hữu, và từ hữu mà sinh sinh, lão, bệnh, tử.
Như vậy, lậu hoặc là kết quả của vô minh gốc rễ của vòng luân hồi. Khi vô minh chưa diệt, lậu hoặc còn; mà khi trí tuệ bừng sáng, lậu hoặc tự tan.

Bốn loại lậu hoặc trong Phật giáo

Bốn loại lậu hoặc

Khi tìm hiểu lậu hoặc là gì ta thấy đây không chỉ là những nhiễm ô chung chung trong tâm mà được Đức Phật phân tích rõ ràng thành bốn loại lậu hoặc. Mỗi loại là một dòng chảy vi tế của phiền não, khiến tâm chúng sanh mãi trôi lăn trong luân hồi.

1. Dục lậu (Kāmāsava)

Dục lậu là sự ham muốn, dính mắc vào các đối tượng của giác quan tức ngũ dục: tài (tiền bạc), sắc (hình sắc, dục vọng), danh (địa vị), thực (ăn uống), thùy (ngủ nghỉ). Khi tâm bị chi phối bởi những thứ ấy, ta dễ sinh ra tham, sân, si, ganh tị và sợ mất.

Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật ví người bị dục lậu như con cá mắc câu, càng vùng vẫy càng đau, càng chìm sâu hơn. Người tu hành muốn đoạn trừ dục lậu phải quán bất tịnh, thấy rõ bản chất vô thường của sắc dục, danh lợi. Ngay cả người cư sĩ, khi biết tiết chế và tỉnh thức trước dục vọng, đã bước đầu khép lại một phần cửa lậu hoặc.

2. Hữu lậu (Bhavāsava)

Hữu lậu là sự dính mắc vào ý niệm “ta là”, “ta có”, “ta sẽ là” chấp thủ vào đời sống hiện tại và mong cầu được sinh về đời sau tốt đẹp hơn. Đây là sự chấp vào hiện hữu, tưởng rằng có “ta thật”, có “thế giới thật”. Nhưng theo giáo lý Duyên khởi, tất cả pháp đều vô ngã, vô thường; “ta” chỉ là sự kết hợp tạm thời của danh sắc, đủ duyên thì sinh, hết duyên thì diệt.

Người còn hữu lậu vẫn còn tham ái với sự sống, dù là sự sống trong cõi trời hay cõi người. Vì vậy, hữu lậu chính là sợi dây ràng buộc vi tế nhất, khiến ngay cả các bậc thiền định nếu không tỉnh giác vẫn chưa giải thoát hoàn toàn.

3. Kiến lậu (Diṭṭhāsava)

Kiến lậu là những nhận thức sai lầm, tà kiến, cố chấp vào cái thấy của mình mà không dựa trên chân lý. Người có kiến lậu thường cho rằng: “Thế giới là thường hằng”, hoặc “Không có nhân quả, chết là hết”. Những chấp thủ như thế khiến tâm đóng kín, không thể tiếp nhận chân lý vô ngã, duyên khởi.

Đức Phật dạy: “Ai chấp vào kiến, người ấy không thấy Pháp.” Vì vậy, đoạn trừ kiến lậu chính là mở mắt trí tuệ thấy biết như thật, không còn bị dẫn dắt bởi quan điểm, thành kiến hay cái ngã của tri thức. Trong thời hiện đại, kiến lậu còn thể hiện ở chỗ chúng ta tin vào những ảo tưởng bản thân tạo ra, tin vào cái “tôi đúng”, “tôi hơn người” mà quên mất rằng mọi tri kiến thế gian đều vô thường.

4. Vô minh lậu (Avijjāsava)

Vô minh lậu là sự không hiểu biết chân lý, không thấy rõ thực tướng của vạn pháp. Đây là cội gốc sâu nhất của lậu hoặc, là nguyên nhân khiến ba loại lậu kia phát sinh. Người vô minh không thấy được bản chất khổ, không hiểu duyên khởi, không nhận ra sự vô thường nên sinh ái, sinh thủ, rồi sinh hữu. Vô minh lậu như bóng tối phủ lên tâm, khiến con người dù học rộng hiểu nhiều vẫn không nhận ra chính mình đang mê.

Trong Kinh Tương Ưng, Đức Phật dạy: “Do vô minh làm duyên, các hành sanh; do minh sanh, vô minh diệt.” Vì vậy, muốn đoạn trừ lậu hoặc tận gốc, phải phá vô minh bằng ánh sáng của chánh tri kiến thấy biết như thật về bốn Thánh đế và Duyên khởi.

Lậu hoặc trong kinh điển Phật giáo

Trong Kinh Trung Bộ I, Đức Phật dạy có bảy pháp đoạn trừ lậu hoặc, đây là một trong những bài kinh sâu sắc nhất nói về việc diệt trừ phiền não tận gốc.
Ngoài ra, trong Kinh Lậu Tận, Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ-kheo, ta nói rằng lậu hoặc được diệt do tri kiến.” Nghĩa là chỉ khi có chánh tri kiến, thấy rõ như thật về khổ, tập, diệt, đạo, thì dòng lậu hoặc mới có thể chấm dứt. Người diệt sạch lậu hoặc gọi là A-la-hán, bậc đã “lậu tận” không còn rò rỉ bất kỳ nhiễm ô nào, đạt đến giải thoát rốt ráo.

Bảy pháp đoạn trừ lậu hoặc

Đức Phật dạy: “Có bảy pháp đoạn trừ lậu hoặc, này các Tỳ-kheo, do tri kiến, do phòng hộ, do thọ dụng, do kham nhẫn, do tránh né, do trừ diệt và do tu tập.”

1. Tri kiến đoạn trừ lậu hoặc

Tri kiến là cái thấy đúng như thật (như lý tác ý). Khi hành giả nhận rõ nguyên nhân của khổ, hiểu duyên khởi, thấy pháp vô thường vô ngã, thì tà kiến không còn chỗ bám.
Người có tri kiến sáng suốt như người có đèn trong đêm tối, không còn lầm đường sinh phiền não.

Bảy pháp đoạn trừ lậu hoặc

2. Phòng hộ sáu căn

Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) nếu không được phòng hộ thì dễ sinh tham, sân, si. Trong kinh có kể chuyện vị Sa-di ngửi hương sen, chỉ một niệm khởi lên đã khiến tâm động, Đức Phật nhắc nhở rằng phòng hộ căn là gốc của phạm hạnh. Người biết “đóng cửa lậu hoặc” chính là người không để sáu căn rò rỉ ra ngoài cảnh trần.

3. Thọ dụng như lý giác sát

Khi ăn, mặc, ở, sử dụng vật chất… hành giả quán rằng: “Ta dùng để hộ trì phạm hạnh, không phải để trang sức, không phải để hưởng thụ.” Nếu dùng vật chất như lý giác sát, tâm không sinh tham dục, lậu hoặc không có cơ hội phát triển.

4. Kham nhẫn trước nghịch cảnh

Trong đời sống, bất như ý là điều tất yếu. Khi bị xúc phạm, tổn thương mà sinh sân hận thì lậu hoặc liền sinh. Đức Phật dạy, chỉ có nhẫn lực mới dập tắt ngọn lửa sân. Kham nhẫn không phải chịu đựng tiêu cực mà là lấy trí tuệ soi chiếu nghịch duyên, thấy mọi sự đều do nhân duyên mà thành, không ai thật hại mình.

5. Tránh né duyên xấu

Người tu học cần biết tránh xa những duyên khiến tâm nhiễm nhiễu, môi trường không lành mạnh, người dễ khởi tham sân, hoặc hoàn cảnh dễ kích thích phiền não. Tránh né đúng pháp là trí tuệ, không phải yếu đuối. Bậc trí biết lánh xa chỗ nguy, như người cẩn thận che bình nước khỏi bụi bẩn.

6. Trừ diệt tận gốc

Khi nhận ra lậu hoặc, hành giả không chỉ kiềm chế mà phải quán sát tận gốc nguyên nhân để diệt trừ. Giống như nhổ cỏ phải nhổ cả rễ, nếu chỉ cắt ngọn thì phiền não sẽ mọc lại. Trừ diệt lậu hoặc là đoạn trừ tận nhân vô minh bằng tuệ giác.

7. Tu tập để thành tựu

bảy pháp đoạn trừ lậu hoặc

Tu tập ở đây là tu giới – định – tuệ, là nền tảng vững chắc giúp các pháp trước viên mãn. Nhờ tu tập chánh niệm, tâm được tĩnh lặng; nhờ định, trí tuệ sinh; nhờ trí tuệ, lậu hoặc đoạn. Đây là pháp tổng nhiếp tất cả con đường thanh tịnh mà Đức Phật đã chỉ bày.

Ý nghĩa của việc đoạn trừ lậu hoặc

Khi lậu hoặc được đoạn trừ, tâm trở nên thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi tự nhiên khởi phát. Người đoạn trừ lậu hoặc sống ngay giữa đời mà không bị đời lôi cuốn, thấy khổ mà không khổ, thấy vui mà không dính mắc. Ở cấp độ cao nhất, đoạn tận lậu hoặc là điều kiện để chứng quả A-la-hán; bậc “lậu tận minh”, giải thoát khỏi vòng sinh tử. Còn trong đời sống hiện nay, mỗi hành giả đoạn trừ lậu hoặc từng phần, tâm đã bớt sân si, bớt chấp ngã, đó đã là Niết-bàn hiện tiền trong từng hơi thở.

Ứng dụng đoạn trừ lậu hoặc trong đời sống hiện đại

Giữa cuộc sống nhiều cám dỗ, người tu học Phật có thể thực hành “đoạn trừ lậu hoặc” theo cách giản dị:

  • Quán chiếu tâm mình mỗi ngày: khi tham, sân, si khởi lên, nhận biết và buông.
  • Giữ giới và chánh niệm: như bức tường ngăn tâm khỏi “rò rỉ” phiền não.
  • Sống đơn giản, biết đủ: để không nuôi lớn dục lậu.
  • Thực hành thiền quán: để thấy rõ gốc rễ vô minh, đoạn trừ vô minh lậu.

Không cần xuất gia mới có thể tu tập người cư sĩ giữa đời vẫn có thể “đóng các lậu” bằng hiểu biết, tỉnh thức và lòng từ. Hiểu rõ lậu hoặc là gì giúp chúng ta biết gốc rễ của khổ đau không ở bên ngoài, mà nằm ngay trong tâm mình. Mỗi niệm tham – sân – si, mỗi ý niệm chấp thủ chính là giọt nước làm đục hồ tâm. Chỉ khi đoạn trừ lậu hoặc, dòng chảy mê lầm được khép lại, trí tuệ sáng ngời, ta mới thật sự sống an vui trong hiện tại và không còn bị cuốn theo vòng sinh tử.

0 lượt thích 0 bình luận

Để lại một bình luận

Tin liên quan

A-Nậu-Lâu-Đà: Vị Tôn giả Thiên nhãn đệ nhất của Đức Phật

Kiến thức Phật giáo 15/10/2025 18:06:44

Thuận cảnh tu đức, nghịch cảnh tu tâm: Pháp tu sâu sắc giữa dòng đời vô thường

Kiến thức 13/10/2025 09:55:37

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp: Vị đầu-đà đệ nhất thời Đức Phật

Kiến thức 11/10/2025 10:07:32

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp: Vị đầu-đà đệ nhất thời Đức Phật

Kiến thức 11-10-2025 10:07:32

Trong lịch sử Phật giáo, nếu nhắc đến người đệ tử có giới hạnh tinh nghiêm, khổ hạnh bậc nhất, được Đức Phật đích thân trao truyền pháp y, thì đó chính là Ma-ha Ca-diếp – vị đầu-đà đệ nhất, bậc Tổ khai sáng dòng truyền thừa đầu tiên của Chánh pháp. Cuộc đời và hạnh nguyện của ngài là tấm gương sáng về tinh thần xả ly, giản dị và thanh tịnh tuyệt đối – một biểu tượng sống động cho đạo hạnh và sự kế thừa bất diệt trong giáo pháp/
11140 lượt xem 0 Bình luận

Tìm hiểu về Vi Đà Hộ Pháp: Vị thần hộ trì chánh Pháp

Kiến thức Phật giáo 10/10/2025 16:21:12

Tìm hiểu về Vi Đà Hộ Pháp: Vị thần hộ trì chánh Pháp

Kiến thức Phật giáo 10-10-2025 16:21:12

Một trong những vị được tôn kính chính là Vi Đà Hộ Pháp – vị thần hộ trì chánh pháp, trừ tà ma, bảo vệ Phật pháp và che chở cho Phật tử. Tượng Vi Đà thường được đặt ở bên phải chính điện, gương mặt hiền hòa, trang phục võ tướng, tay cầm kiếm hoặc chày Kim Cang, đối diện với Tiêu Diện Đại Sĩ.
4399 lượt xem 0 Bình luận

Phật Mẫu Chuẩn Đề là ai? Nguồn gốc, thân tướng và oai lực của Ngài

Kiến thức 09/10/2025 11:56:24

Phật Mẫu Chuẩn Đề là ai? Nguồn gốc, thân tướng và oai lực của Ngài

Kiến thức 09-10-2025 11:56:24

Phật Mẫu Chuẩn Đề (tiếng Phạn: Cundī hay Cunïdïhi – चुन्दी; chữ Hán: Thất Câu Chi Phật Mẫu, Thất Câu Đê Phật Mẫu hay Chuẩn Đề Bồ Tát) là một trong Lục Quán Âm của Phật giáo. Ngài được tôn xưng là Mẹ của chư Phật (Bhagavathi) và được xem là bậc Bồ Tát đại từ đại bi, đồng hàng với Quán Thế Âm.
12938 lượt xem 0 Bình luận