Chùa Phật Tích Bắc Ninh – Ngôi cổ tự chứa nhiều điều đặc biệt

06/12/2023 11:04:05 422 lượt xem

Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa cổ lưu giữ nhiều lịch sử lâu đời với kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn thời Lý, di tích lịch sử văn hóa quốc gia còn gìn giữ được di vật cổ của Phật giáo với số lượng lớn và đa dạng.

Giới thiệu chùa Phật Tích

Chùa Phật Tích tọa lạc tại xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm kiến trúc dấu ấn thời Lý.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép lại, ngôi chùa xây dựng vào thế kỷ VII – X. Khi xưa, ngôi chùa được các nhà Phật giáo đầu tiên từ Ấn Độ chọn làm điểm dừng chân khi sang nước Việt truyền đạo. Năm 1057, vua Lý Thánh Tông xây dựng lại ngôi chùa trong niên đại của nhà Lý – Trần, chùa Phật Tích được xem là Quốc tự – Trung tâm văn hóa Phật giáo của Đại Việt.

Năm 1066, vua Thánh Tông tiếp tục cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổi mới lộ ra ở trong đó có một bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện của bức tượng này, làng đổi tên thành Phật Tích và dời cả lên sườn núi. Đến thời vua Trần Nhân Tông đã cho xây dựng cung Bảo Hòa và một thiền viện lớn nhất ở Phật Tích. Vua Trần Nghệ Tông đã cho tổ chức một cuộc thi “Thái học sinh” tại chùa. Đến thời là Lê, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong công việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am – Đệ nhất cung tần của Chía Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi bà rời phủ Chúa về tu ở chùa này.

Trải qua những thăng trầm lịch sử, chùa Phật Tích còn lưu giữ được nguyên nền móng của thời Lý với 4 lớp nền có quy mô lớn, nhiều di vật, cổ vật thời Lý như: Chân cột, gạch ngói, bệ tảng, tượng Phật A Di Đà, tượng đầu người mình chim, 10 linh thú,… và một số kiến trúc điêu khắc, cổ vật, di vật các thời Lê – Nguyễn như: Tượng cổ Chuyết Công, vườn tháp, tượng Tiên chúa Trần Ngọc Am, tượng hậu, bia đá,…

Đặc biệt, nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, năm 2008 chùa Phật Tích được trùng tu khôi phục với quy mô lớn gồm các hạng mục: Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, Quan Âm viện, Bảo tàng và tượng Phật A Di Đà trên đỉnh núi. Phục dựng dựa trên kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc”, mái chùa cong chạm khắc hình mây, hình chạm khắc nổi là rồng và hoa sen,…Bên phải là miếu Tiên chúa thờ Trần Ngọc Am. Bên trái chùa chính là nhà Tổ đệ nhất thờ Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ.

Với những giá trị đặc biệt từ kiến trúc đến lịch sử, nghệ thuật ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho Di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật chùa Phật Tích.

Vào lúc 18h30 ngày 09/12/2023 (nhằm 27/10 năm Quý Mão), chùa Phật Tích long trọng tổ chức Lễ gia trì khai mở Phật ngọc Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông nhân dịp Đại lễ tưởng niệm 715 năm ngày Ngài nhập Niết Bàn (1308-2023).

Kính mời Quý nhân dân, Phật tử và thiện nam tín nữ gần xa hoan hỷ đăng ký tham gia chương trình và đảnh lễ, cung kính chiêm bái tôn tượng Phật ngọc Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông ngay tại đây để nhà chùa có thể chuẩn bị tiếp đón chu đáo nhất:

ĐĂNG KÝ THAM GIA LỄ GIA TRÌ KHAI MỞ PHẬT NGỌC PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

Nét đẹp kiến trúc của chùa

Giếng rồng

Chùa Phật Tích hiện nay được xây dựng trên nền móng cổ từ thời đại Lý. Lúc trước, để tạo ra mặt đất để xây chùa, người dân thời Lý đã làm phẳng núi thành bốn tầng từ chân núi lên. Tầng nền đầu tiên, đối mặt với mặt đất của con đường làng, cũng là con đường dẫn lên chùa ngày nay. Còn lại của tầng nền này chỉ còn lại vài tảng đá kè bó.

Nếu nhìn từ cổng chùa, hai bên có hai ao là “Đông Hồ” và “Tây Hồ,” giống như hai “mắt rồng” và một “giếng rồng.” Giếng rồng còn được biết đến với tên gọi “Long Tỉnh,” có đường kính 1.5m và được bao phủ bởi tán cây đa cổ thụ. Xung quanh giếng, có một tường đá thấp với cấu trúc trụ, chân lan can, và phần trên làm bằng đá xanh, trong khi tường lan can được xây từ đá Hải Lựu.

Vào tháng 3 năm 2003, khi làm sạch giếng, người dân phát hiện một chiếc đầu rồng làm từ đá dưới đáy giếng. Chiếc đầu rồng này có chiều dài 53cm, chiều rộng 20cm, với móng và miệng ngậm ngọc. Các nhà nghiên cứu tin rằng đầu rồng này có cùng niên đại (năm 1057) với những di vật đá khác tại khu di tích.

Tam quan

Tầng nền thứ hai của khu vực này nằm cao hơn so với khu cổng chùa, với độ cao là 3.7m. Toàn bộ bức tường nền được xây dựng bằng các khối đá lớn hình chữ nhật được xếp chồng lên nhau. Chiều dài của bức tường đá này là 58m, ở phía dưới có một cấp nền khác, được kè vuông góc với bức tường thứ hai, rộng 1m và cao 0.75m. Ở giữa bức tường, có một con đường đá rộng 5m, có tổng cộng 30 bậc. Đây là nơi chứa tam quan và tòa gác chuông hai tầng 8 mái, mà hiện tại cấp nền này đã được phục dựng lại.

Tam Quan có kiến trúc 3 gian 2 tầng, có chiều rộng 8.2m, chiều dài 10.4m và chiều cao 4m. Ở phía trên của Tam Quan treo một quả chuông đồng và một khánh đồng. Chuông này được đúc tại cơ sở đúc đồng của nghệ nhân Nguyễn Văn Sính ở thành phố Huế. Trọng lượng của chuông là 7.450kg, chiều cao thân chuông là 2.15m, và đường kính đáy chuông là 3.5m. Quai treo chuông được đúc liền khối với hình dáng đầu rồng thời Lý hướng ra ngoài, và đỉnh quai chuông mang hình dáng lá đề. Bên trong chuông được trang trí với vòng hào quang và ngọn lửa, tượng trưng cho sự cao quý, linh thiêng và uyên thâm của Phật giáo. Phần trên của thân chuông có hình ảnh của Phật A Di Đà, trong khi phần dưới được trang trí với các biểu tượng như hình rồng, hoa văn sóng nước và lá đề.

Ở phía sau Tam Quan, có khu vực vườn chùa, với vườn mít và rặng nhãn ở hai bên đường. Theo truyền thuyết, trước đây, vườn này được trồng mẫu đơn để mở hội xem hoa vào dịp đầu Xuân, và cũng là nơi của câu chuyện tình yêu huyền bí về Từ Thức.

Tam Bảo chính điện

Tòa Tam Bảo nằm bên trong một khuôn viên hình chữ nhật lớn, được giới hạn bởi Tiền Đường ở phía trước, Hậu đường ở phía sau và hai dãy hành lang. Kết cấu kiến trúc của toàn bộ tòa Tam Bảo được tái tạo dựa trên kết quả của cuộc khai quật do nhà khảo cổ học người Pháp L. Bezacier, thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ, thực hiện. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1940, ông đã tiến hành khai quật tại phần nền tháp và phát hiện ra nhiều bức chạm đá, đất nung, và viên gạch xây dựng có niên đại là 1057.

Năm 2008 – 2009, trong quá trình khôi phục chùa Phật Tích, công trình đào móng đã tái hiện lại móng tháp. Móng tháp có độ dày 1.87m, từ độ sâu 9.60m đến 11.47m, được gia cố bằng sỏi và đất sét, sử dụng kỹ thuật đầm nện vững chắc, tương tự như cách gia cố móng trụ sỏi tại Hoàng thành Thăng Long. Phía trên là lớp móng gạch và đế hình vuông (kích thước 9.24m x 9.18m, độ dày 2.50m), với các góc móng được xây dựng uốn cong theo kiểu ao đình. Nếu chỉ xét về móng gạch xây tháp, móng tháp Phật Tích cũng thiết lập kỷ lục về độ bền vững. Tuy nhiên, kiến trúc này cũng đã được điều chỉnh và bổ sung để phù hợp với yêu cầu và mục đích sử dụng, cũng như các tiêu chí kỹ thuật.

Tòa Tam Bảo chính giữa có kiến trúc theo phong cách “Nội công ngoại quốc”, với diện tích tổng cộng là 1.064m2, bao gồm 11 gian Tiền đường, 3 gian Thiêu hương, 3 gian 2 chái Thượng điện, và 11 gian nhà Hậu. Hai bên của tòa có hai dãy hành lang, mỗi dãy với 7 gian, được bài trí với hệ thống tượng Thập bát La Hán.

Tượng Phật A Di Đà

Tượng Phật A Di Đà được chế tác từ một khối đá xanh nguyên khối, bao gồm cả phần thân tượng và bệ, với chiều cao lên đến 4.7m. Tượng được điêu khắc trong tư thế ngồi kiết già trên một tòa sen, với hai bàn tay đặt ngửa, chồng lên nhau và đặt trên đùi. Lớp áo ngoài thoải mái buông xuống, che phủ đôi chân của Phật tử. Thân tượng có vóc dáng mảnh mai, ngồi với tư thế nhẹ nhàng rướn lên phía trước, khuôn mặt hiền dịu và tràn đầy nữ tính, với một nụ cười nhẹ.

Tượng được đặt trên một bệ chế tác từ đá, mà tòa sen nằm trên đó có hình dạng bát giác với các chi tiết chạm khắc tinh tế. Bệ được tạo hình bằng các đóa sen đang nở, với hai tầng cánh. Tầng trên của bệ chạm hình đôi rồng, các họa tiết trang trí chạm khắc trên toàn bề mặt. Cả hai tầng đều chạm hình đôi rồng vờn nhau trong làn mây. Mặt trên của tầng diềm chạm những chùm hoa dây mềm mại, với nhiều hoa leo trèo. Mặt dưới của bệ có hình sóng nước được chạm khéo léo, tạo nên một hình ảnh sống động và tỉ mỉ.

Trong thời kỳ làng Phật Tích bị chiếm đóng bởi quân đội Pháp, tượng Phật A Di Đà đã trở thành mục tiêu tập bắn, làm gãy đầu và bị đạn trúng vào thân. Một cụ ông trong làng đã giữ giấu đầu tượng một cách kín đáo. Sau năm 1954, khi hòa bình được thiết lập, cụ ông đã trả lại đầu tượng cho nhà chùa, giúp khôi phục lại tượng như ngày nay.

Tượng Phật A Di Đà là tác phẩm điêu khắc bằng đá lớn nhất và đẹp nhất thời kỳ Lý tại Việt Nam được biết đến cho đến nay. Tượng và các chi tiết trang trí trên bệ tượng thể hiện nghệ thuật bản địa và chứng minh sự tiên phong của nghệ thuật Phật giáo cũng như nghệ thuật tự chủ Đại Việt. Với đường nét tinh tế, mềm mại và sự tỉ mỉ sống động, tượng Phật A Di Đà của chùa Phật Tích đã được công nhận là Bảo vật quốc gia từ năm 2012. Đây là điểm nhấn độc đáo, khiến cho mọi người khi nhắc đến chùa Phật Tích đều nhớ đến tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời này.

Phủ chúa

Trước kia, Phủ Chúa là nơi thờ phụng bà Chúa Trần Ngọc Am, người từng là đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng. Bà rời Phủ Chúa để tu tại chùa này vào năm Chính Hòa thứ bảy (năm 1686). Bà thật sự là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Chúa Trịnh Tráng đã xa lánh giới trịch để đưa bà về Thăng Long và trao danh hiệu Trịnh Thị Ngọc Am.

Bà đóng vai trò quan trọng như Đại thí chủ, cùng với Dũng Lễ công Trịnh Khải, đã giúp cưu mang Chuyết Chuyết thiền sư và các đệ tử khi họ đang khó khăn tại kinh thành Đông Đô vào cuối năm 1633. Bà đã tổ chức cho đoàn về ở tại chùa Khán Sơn và khai mạc lớp học phật pháp. Sau đó, bà cùng các đệ tử rước ngài Chuyết Chuyết về chùa Phật Tích ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, đóng góp tích cực vào việc trùng hưng lại chùa Phật Tích đầu thế kỷ XVII.

Phía trước miếu, có một tháp Linh Quang được xây dựng vào năm Chính Hòa 20 (1699). Tháp Linh Quang chỉ có một tầng nhưng cao và trang trí đẹp mắt. Mặt trước mở cử vuông, cổng và bia trong lòng tháp được trang trí chữ Hán theo kiểu độc đáo và tinh tế. Phiến đá trên cửa có chữ Hán: “Nam vô A Di Đà Phật”, “Sắc kiến”, và dòng chữ “Linh Quang tháp” được khắc chạm mỗi chữ trong vòng tròn nổi. Bên cạnh đó, bia đá bên trong tháp có hình vòng tròn cách điệu với 3 mặt trời, giữa là dòng chữ Hán theo chiều dọc.

Phủ Chúa đã được xây lại vào năm 2008 nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.

Bộ tượng 10 linh thú

Trước cửa tam bảo của chùa Phật Tích, có một bộ tượng gồm 10 linh thú được tạo ra từ đá, bao gồm sư tử, voi, trâu, tê giác và ngựa. Đây là những tác phẩm độc đáo, có nguồn gốc từ thế kỷ XI, cùng với thời điểm xây dựng chùa. Mỗi con linh thú cao khoảng 1.2m, dài từ 1.5m đến 1.8m, được đặt trên bệ đá hoa sen dài 1.7m, rộng 0.8m và cao 0.36m. Phần trên của bệ đá được tạc nổi với hình tròn trang trí hoa sen và mặt bên chạm nổi hình dàn nhạc công biểu diễn.

Những linh thú này không chỉ là hiện vật nghệ thuật xuất sắc mà còn mang ý nghĩa tâm linh. Chúng đại diện cho những loài vật có trong phật thoại, không chỉ phục vụ phật pháp mà còn bảo vệ nó. Sư tử tượng trưng cho sức mạnh và lòng gan; voi biểu tượng cho sức mạnh tinh thần; tê giác là biểu tượng của sự kiên trì trong tu hành; ngựa là biểu tượng của năng lượng và sức mạnh hành pháp; còn trâu mang ý nghĩa giải thoát tự nhiên, tự tại trong thế giới của Phật.

Bộ tượng linh thú đá này, kết hợp với nhiều tác phẩm điêu khắc đá cổ khác, tạo nên vẻ độc đáo và cổ kính cho chùa Phật Tích. Với giá trị lớn về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật, bộ tượng 10 linh thú của chùa Phật Tích đã được công nhận là Bảo vật quốc gia từ năm 2017.

Quan Âm viện

Năm 2005, Quan Âm Viện – một trung tâm tu tập tại khuôn viên của chùa Phật Tích, đã chính thức được khánh thành, điều này đồng nghĩa với sự bắt đầu của một giai đoạn phát triển mới cho chùa.

Phía bên trái Tam Bảo, có nhà tổ đệ nhất dành để thờ phụng Thiền sư Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ. Kính mời quý vị đến thăm, dâng hương và lắng nghe những câu chuyện về Thiền sư Chuyết Chuyết, như một phần không thể thiếu trong hành trình tu tập tại chùa Phật Tích.

Nhà tổ

Năm 1987, nhà thờ Tổ được xây dựng với 5 gian trước và 5 gian điện phía sau, nằm ở phía bên trái khu Tam Bảo. Nhà Tổ là nơi lưu giữ tượng nhục thân của sư tổ của chùa, là thiền sư Chuyết Chuyết, cũng như tượng tổ Chân Nguyên và tượng Diệu Tuệ Tỳ Kheo Ni.

Thiền sư Chuyết Chuyết sinh năm 1590 tại Tiệm Sơn (huyện Hải Trừng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc), nay thuộc thành phố Dương Châu. Mang họ Lý và tên là Thiên Tộ, thiền sư đã học hỏi từ nhiều hòa thượng và giáo hóa ở nhiều ngôi chùa, sử dụng pháp danh khác nhau như Viên Văn, Chuyết Công, Chuyết Chuyết. Pháp danh Chuyết Chuyết đã được sử dụng cho đến ngày nay.

Vào ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân (1644), tiếng mõ ngừng vang từ tháp, thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch khi tròn 54 tuổi. Một điều kỳ lạ là sau khi ông mất, trong suốt một tháng, khắp chùa lan tỏa mùi hương thơm lạ. Đệ tử chân truyền là thiền sư Minh Hành đã sử dụng kỹ thuật tượng táng phổ biến thời kỳ đó để bảo quản cốt thầy và đặt ông vào tháp Báo Nghiêm.

Một khoảng thời gian sau đó, thiền sư Minh Hành đưa nhục thân của thiền sư Chuyết Công đến một ngôi chùa ở Thanh Hóa để tránh chiến tranh. Rồi không rõ nguyên nhân gì, các đệ tử đã đưa về nhà thờ tổ của chùa Phật Tích và sau đó đặt vào tháp Báo Nghiêm. Tháng 8 năm 1989, tượng nhục thân của Thiền sư Chuyết Chuyết được phát hiện trên rừng mộ tháp, nhưng xương cốt đã nằm trong 133 mảnh.

Nhà Mẫu

Nhà Mẫu, được xây dựng ban đầu vào năm 1987, đã trải qua quá trình tôn tạo mới vào năm 2008 nhân dịp kỷ niệm Đại Lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.

Đây là không gian linh thiêng chứa đựng nhiều tượng vô cùng quan trọng như tượng Tứ phủ chầu bà, tượng Ngọc Hoàng, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tượng Sơn Trang và tượng Đức Thánh Trần, kèm theo nhiều hoành phi và câu đối có giá trị tâm linh. Nhà Mẫu không chỉ là nơi thể hiện sự tôn trọng và sùng bái các vị thần linh mà còn là một phần quan trọng trong lịch sử và văn hóa của chùa.

Vườn tháp tổ

Vườn tháp ở phía sau chùa Phật Tích hiện vẫn giữ nguyên 35 ngôi tháp, đây là khu vực quan trọng chứa xá lợi của các nhà sư từng trụ trì tại chùa, đặc biệt là trong thế kỷ XVII.

Tháp lớn nhất trong số này là Tháp Phổ Quang, có chiều cao 5.10m, gồm đế, khám thờ, hai tầng diềm và mái mui luyện với chóp tròn. Tháp Phổ Quang được xây dựng vào năm Cảnh Trị thứ hai (1664), có tổng cộng 4 tầng. Tầng thứ hai là không gian trống rỗng với trần được khắc hình tròn bát quái; ba mặt vách chạm tới 7 tượng phật ngồi trên tòa sen. Trong tháp Phổ Quang, trần phía trong được trang trí với các biểu tượng tương tự như tháp Bồ Đề. Mặt chính phía trong chạm phù điêu Tam thế Phật ngồi tĩnh tọa trên tòa sen, với hai lớp cánh chạm kép để trơn, hai tay kết định ấn đặt ngửa trong lòng đùi, mình mặc áo cà sa với các nếp áo phủ tràn xuống chấm mềm mại. Hai mặt bên chạm nổi phù điêu tứ vị Quan Âm Bồ Tát cũng trong tư thế ngồi thiền trên đài sen, đầu đội thiên quan, chính giữa mũ chạm nổi hình đức Phật A Di Đà.

Trong tổng số 35 ngôi tháp hiện còn lại, phần lớn đã được xây dựng từ chất liệu truyền thống, bao gồm 27 tháp xây bằng gạch chỉ nung già, miết mạch vôi vữa, không trát phía ngoài; còn 8 tháp xây bằng đá với những viên đá lớn xếp chồng lên nhau, hầu như không thấy mạch ghép. Hầu hết các tháp ở đây đến nay vẫn giữ được tên và niên đại an tháp, một số tháp có văn bia với chữ nét rõ ràng, ghi chép về hành trạng của các thiền sư được an táng trong tháp. Đây là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu về lịch sử chùa Phật Tích, đặc biệt là lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung.

Bảo Tháp

Bảo tháp của chùa Phật Tích, được xây dựng vào năm 2008, cao 45m, mang chất liệu đặc trưng từ thời kỳ lịch sử của nhà Lý, là một công trình đặc biệt gợi nhớ về tòa tháp cổ từng tồn tại ở chùa Phật Tích trong thời kỳ hoàng kim.

Theo sử sách, vào năm 1066, vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng một tòa tháp cao 40m. Trong thời kỳ Trần, ngôi tháp cổ này bị đổ sụp, tiếp theo là việc phát hiện một bức tượng Phật A di đà bằng đá, mà ngày nay vẫn được bảo quản. Nền móng của ngôi tháp cổ đã được khai quật và nằm chính xác ở vị trí của Tam Bảo ngày nay. Tháp bảo tháp mới tại chùa Phật Tích được xây dựng trên đỉnh núi phía sau của chùa, với 14 tầng nhỏ dần từ dưới lên trên, tương đương với chiều cao được ghi chép trong sử sách. Mỗi tầng tháp có 8 mặt, với trổ ô cửa vòm xếp gạch múi cam ở giữa mỗi mặt. Trong mỗi ô cửa được trang trí với một tượng Phật, mang hình dáng giống với tượng Phật cổ được khám phá tại tòa tháp cổ xưa. Các ô cửa ở tầng một là lối vào tháp. Hai tầng dưới của tháp được trang trí với hình tượng chim thần Garuda, chế tác theo tượng Garuda cổ từng được khai quật tại chùa và hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Từ chân tháp, có một cầu thang cuốn dẫn lên đỉnh tháp. Đỉnh tháp treo một quả Đại hồng chung, kích thước rất lớn, chỉ được đánh vào những dịp đặc biệt.

Đại Phật tượng A Di Đà

Trên đỉnh núi Phật Tích, ngày xưa, có một khối đá vuông, bề mặt phẳng nhẵn được truyền miệng như bàn cờ tiên, xuất phát từ sự tích của chàng tiều phu Vương Chất. Vương Chất, người sống tại thôn Phù Lập Thượng, xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, là một chàng trai tiều phu thường xuyên lên núi Phật Tích đốn củi. Một ngày, khi chàng đến đỉnh núi, chứng kiến hai ông tiên đang chơi cờ dưới tán cây thông già, anh quyết định dừng lại và theo dõi. Khi chàng quay lại, anh thấy chiếc rìu của mình đã mục, và từ đó, gánh củi của Vương Chất được coi là có giá trị đặc biệt qua nhiều thế hệ.

Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, nơi này đã chứng kiến sự xuất hiện của Đại Phật tượng, được mô phỏng theo tượng Phật A di đà tại khu Tam Bảo. Phật đài Đại Phật tượng, nằm trên đỉnh núi Phật Tích (hay núi Lạn Kha xưa), có độ cao 108m, là điểm cao nhất tỉnh Bắc Ninh. Công trình này rất hùng vĩ và hoành tráng, với chiều cao của toàn bộ Phật đài lên đến 27m, nặng 3.000 tấn, và đã chính thức khánh thành vào ngày 26 tháng 9 năm 2010. Đây là một kỷ lục mới với danh hiệu “pho tượng Phật bằng đá lớn nhất Đông Nam Á”. Phật đài có hình tượng Đại Phật ngồi thiền uy nghi trên đỉnh núi, và được xây dựng với tâm nguyện thức dậy tiềm năng của thiên cổ, đánh dấu nơi đầu tiên phát sinh Đạo Phật ở Việt Nam.

Thăm chùa Phật Tích không chỉ mang lại cảm giác an yên tại cửa Phật mà còn là hành trình tìm kiếm những giá trị tôn giáo, lịch sử và nghệ thuật vô song của dân tộc. Chùa Phật Tích đóng góp vào việc xây dựng danh tiếng cho cái nôi Phật giáo trong vùng đất Bắc Ninh. 

33 lượt thích 0 bình luận

Trả lời

Tin liên quan

Chùa Thần Quang – Ngôi cổ tự “không Sư trụ trì” tại làng hiếu học Nam Định

Du lịch chùa 26/08/2024 15:40:17

Đại danh lam cổ tự chùa Vĩnh Nghiêm – Nơi lưu giữ hơn 3000 báu vật

Du lịch chùa 26/08/2024 15:23:57

Chùa Bà Đanh ở Hà Nam ngôi cổ tự nổi tiếng vì “vắng người”

Du lịch chùa 26/08/2024 14:33:36

Chùa Kom Ph’lưng – Nơi lưu giữ nhục thân vị sư gần 1 thập kỷ không phân huỷ

Du lịch chùa 24/08/2024 11:05:22

Ngôi cổ tự nơi 27 nhà sư “cởi áo cà sa, khoác chiến bào ra trận”

Du lịch chùa 30/07/2024 16:48:58