Thân thế
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917 – 2021) là Đệ tam Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngài là bậc tùng lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam, là bậc cao Tăng có nhiều đóng góp cho Giáo hội, thông tuệ và am hiểu Tam tạng Thánh giáo, có nhiều đóng góp quan trọng trong biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm Phật học đồ sộ giá trị cho Phật giáo Việt Nam. Ngài được Nhà nước trao tặng: Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Độc lập hạng Nhì và nhiều danh hiệu cao quý khác.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh Bùi Văn Quý, sinh ngày 12/04/1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Song thân của Ngài đều là những Phật tử thuần thành. Ngài là con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em.
Hành trạng – Xuất gia tu học
Năm 1925, lên 9 tuổi Ngài được song thân cho đến chùa ở với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long, thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Hiệng nổi tiếng trong vùng.
Năm 1929, tròn 13 tuổi Ngài được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An, trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định tu học.
Năm 1932, trải qua 3 năm tu học Ngài được Sư tổ Vọng cho thụ giới Sa-di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định khi đó Ngài mới tròn 16 tuổi.
Năm 1934, 18 tuổi Ngài đến sam học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội).
Năm 1936, vừa tròn 20 tuổi Ngài được thụ Cụ túc giới và Bồ-tát giới tại Đại giới đàn tổ đình Viên Minh, do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau khi đầy đủ giới pháp, Ngài bắt đầu quá trình sam phương cầu đạo ở hầu hết các sơn môn, tổ đình lớn thời bấy giờ như Tế Xuyên, sơn môn Hương Tích, tổ đình Vĩnh Nghiêm,…
Năm 1961, Sư tổ Thích Quảng Tốn trụ trì đời thứ hai tổ đình Viên Minh viên tịch, Ngài được kế đăng làm trụ trì đời thứ ba tổ đình Viên Minh.
– 1958 –1987: Hòa thượng ẩn tu nơi thôn dã, nghiên cứu phiên dịch kinh điển, sản xuất nông nghiệp và mở mở lớp học cho Tăng Ni lân cận đến học Phật pháp tại chùa Viên Minh.
– 1993 – 2008: Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tây.
– 1993 – 2008: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây.
– 1992 – 1997: Hội đồng Trị sự GHPGVN.
– 1997 – 2007: Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Phó Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.
– 2002 – 2007: Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
– 2003 – 2007: Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội.
– 2003 – 2007: Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
– 2007 – 2021: Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Ngài được Đại hội suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Ngoài giữ chức vụ quan trọng trong GHPGVN, Ngài cũng có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đoàn kết dân tộc, tham gia làm Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN nhiều khoá, từ khoá 4 đến khoá 9, tham gia phong trào bình dân học vụ đến phong trào xây dựng quê hương. Cùng với việc chăm lo chùa cảnh góp phần xây dựng quê hương, Ngài là bậc chân tu, luôn giữ tình đoàn kết các tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tác phẩm dịch thuật và trước tác
Cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là vị cao Tăng, thông tuệ và am hiểu Tam tạng Thánh giáo. Đặc biệt, Ngài có nhiều đóng góp quan trọng trong biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm Phật học dù chưa một lần xuất ngoại nhưng để lại nhiều tác phẩm đồ sộ giá trị cho Phật giáo Việt Nam như:
- Chú giải Đại Từ điển Phật học
- Chú giảng và thuyết giảng kinh Lăng Nghiêm
- Đề cương kinh Pháp Hoa
- Kinh Bách dụ
- Phật Tổ tam kinh
- Phật học là tuệ học
- Kinh Di Đà Viên Trung sao
- Bát Nhã Dư âm
- Luật Tỷ-khiêu
- Luật Tỷ-khiêu-ni lược ký
Ghi nhận công đức
Trong suốt quá trình hành đạo tại tổ đình Viên Minh và quá trình tham gia hoạt động Phật sự của Giáo hội và xã hội. Cố Đại lão Hòa thượng thích Phổ Tuệ đã có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc được Giáo hội và Nhà nước trân trọng ghi nhận trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như:
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Độc lập hạng Nhì
- Huân chương đại đoàn kết dân tộc
- Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
- Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQVN
Thời kỳ viên tịch
Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi sa-bà với 85 hạ lạp trên ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh. Sống trọn cuộc đời tu hành giản dị, ngoài thời khóa kinh kệ mỗi ngày, cả cuộc đời gắn bó với vùng ruộng đồng quê kiểng, lúc tự trào Ngài nhận mình là một “Lão Nông Tăng” tức là nhà sư nông dân.
Cuộc đời Ngài từ sơ tâm xuất gia cho đến lúc hoá duyên đã mãn luôn luôn là tấm gương chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia và tại gia. Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiệm làm thân giáo để răn dạy, sách tấn hàng hậu học. Cuộc đời Ngài là biểu tượng tinh thần Bi – Trí – Dũng. Tận lực duyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, phục vụ nhân sinh, phát huy những giá trị tốt đẹp của Phật giáo Việt Nam chung tay xây dựng đất nước.
Thời khắc thiêng liêng tương hội, công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ GHPGVN đã thâu thần thị tịch vào hồi 3 giờ 20 phút ngày 21-10-2021 (nhằm ngày 16-9-Tân Sửu) tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Ngài ra đi để lại trong lòng môn đồ tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn, kính tiếc vô cùng. Ngài ra đi nhưng cuộc đời đức hạnh của Ngài mãi mãi hằng hữu trong trang sử huy hoàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.