Tam Tịnh nhục là gì? Luật và ý nghĩa của Tam Tịnh Nhục

03/01/2024 09:51:05 1402 lượt xem

Tam Tịnh Nhục được hiểu là phương tiện mà Đức Phật dành cho người sơ học đo do chưa thể dứt tuyệt ngay được với đồ mặn để phát nguyện ăn chay trường. 

Tam Tịnh Nhục là gì? 

Tam Tịnh Nhục là một lựa chọn tạm thời mà Đức Phật giới thiệu cho những người mới bắt đầu học đạo và chưa thể hoàn toàn từ bỏ việc ăn thực phẩm từ thực vật. Mục đích của phương tiện này là để họ từ từ thức tỉnh tâm hồn, nhận thức giá trị cuộc sống của mọi sinh linh, sau đó chuyển sang tu tập trường chay để đạt được giác ngộ nhanh chóng.

Tam Tịnh Nhục bao gồm loại thịt mà người học Phật có thể ăn khi mới bắt đầu hành trình tu tập, miễn là thỏa mãn ba điều kiện quan trọng sau:

  1. Không tự tay giết vật để có thịt.
  2. Không thấy người giết vật.
  3. Không nghe tiếng rên xiết thê lương của con vật khi bị giết.

Kinh Lăng nghiêm đã dạy rằng việc ăn thịt có thể tạo nghiệp xấu và làm chuỗi tái sinh không ngừng, vì sinh linh khi chết có thể sống lại dưới hình thức khác nhau. Đức Phật đã truyền đạt lời dạy không nói dối, và đây là lý do tại sao nên tin tưởng vào những lời dạy của Ngài.

tam tịnh nhục

Luật Tam Tịnh Nhục

Ăn chay ngày nay là một thực hành đang phát triển trong xã hội hiện đại. Một số người nổi lên với tinh thần nhiệt huyết và chỉ trích Đức Phật cũng như Phật tử hiện đại sử dụng thịt. Bài viết này nhằm nghiên cứu lại quan điểm của Đức Phật về việc sử dụng thịt và cá. Đầu tiên, chúng ta sẽ xem xét giới luật mà Đức Phật đã để lại liên quan đến việc này và khám phá những nghiên cứu và phân tích về giới luật đó.

Có một số điều gây tranh cãi xoay quanh thành phần “sùkaramaddava” của bữa ăn cuối cùng mà Đức Phật đã thưởng thức. Có ý kiến cho rằng Đức Phật đã ăn thịt heo, trong khi người khác tin rằng đó là dược liệu hoặc một loại nấm rừng. Sự kiện liên quan đến việc vị Tướng Quân Siha tổ chức bữa tiệc và Đức Phật tham gia cũng gây tranh cãi. Tướng Quân Siha được cho là đã giết một con vật để chuẩn bị cho bữa tiệc, và Đức Phật cố ý tham dự, dẫn đến việc phạm pháp và gây ra hậu quả nghiệp chướng nghiêm trọng.

tam tịnh nhục (2)

Đức Phật đã dạy rằng các tăng ni không nên cố ý sử dụng thịt chỉ dành riêng cho họ, nhưng chỉ có ba trường hợp mà sử dụng thịt và cá không bị phiền trách: không thấy, không nghe, và không nghi ngờ. Giới luật này đã được đề cập đến khi nói về luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật về ăn thịt. Ba điều kiện này đòi hỏi không chứng kiến việc giết mổ, không nghe tin đồn về việc giết mổ, và không nghi ngờ về hai trường hợp trên.

Luật Tam Tịnh Nhục phân biệt giữa hai loại thịt: “uddissakatamasa” và “pavattamasa”. Loại thịt đầu tiên là thịt chỉ dành riêng cho một người tiêu thụ và bị cấm theo giới luật. Loại thịt thứ hai là thịt đã sẵn có và được phép sử dụng. Một số tranh cãi xoay quanh việc xác định loại thịt “đã sẵn có”, nhưng có đánh giá cho rằng nó bao gồm cả thịt từ các con vật bị giết mổ tình cờ và thịt được bán ở ngoài thị trường.

Đức Phật đã cấm sử dụng thịt của mười sinh vật, bao gồm thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, beo, gấu và linh cẩu. Những loại thịt này được công bố là không thích hợp mà không đi sâu vào phân tích chi tiết. Quyết định cấm này được cho là đã được sự đồng thuận của cộng đồng.

Theo quan điểm Phật giáo, người sử dụng thịt phải hiểu rõ nguồn gốc của nó. Đức Phật yêu cầu không sử dụng bất kỳ loại thịt nào mà không biết rõ căn nguyên của nó. Điều này là trách nhiệm của người tiêu thụ để đảm bảo rằng loại thịt được sử dụng đúng quy định.

tam tịnh nhục (3)

Ngày nay, lối hành trì của Phật tử tại các quốc gia Nam Tông có sự đa dạng. Tại Sri Lanka, nhiều nhà sư chỉ sử dụng cá trong bữa ăn, nhưng ngày càng có nhiều nhà sư ăn chay. Ở Thái Lan, có vẻ như việc cúng dường các món ăn có thịt trong các bữa ăn của những vị sư là phổ biến.

Ý nghĩa của Tam Tịnh Nhục

Tam Tịnh Nhục, được mô tả như “mắt không thấy, tai không nghe,” có lẽ khiến nhiều người thắc mắc: khi chúng ta mua thịt từ chợ, liệu chúng ta có thể tránh khỏi nghiệp chướng hay không? Dù sao, cả hai đối tượng, người mua và người giết, đều đang góp phần vào cùng một chuỗi cung ứng, giống như luật nhân quả, có cho và có nhận.

Người mua, thông qua việc chi trả tiền, đang chịu chung nghiệp chướng, vì chúng sinh động vật bị giết mổ. Điều này tạo ra chuỗi kết nghiệp, và cảm ơn người mua mà người giết mới có nghiệp lợi. Tương oan tương báo trong chuỗi luân hồi kéo dài như vậy.

tam tịnh nhục (4)

Chỉ có chay tịnh mới có thể giảm đi nghiệp chướng. Người trồng rau và người bán hàng về chay là những hành động chánh mạng, trong khi người mua duy trì nghiệp chướng. Ăn chay giúp chúng ta tích lũy thêm phúc đức, tạo ra một cuộc sống an lành và hướng tới Phật Pháp trọn vẹn nhất.

Trong quan hệ với thân thể, mọi tác động từ thần thức động vật đều có thể gây ra bệnh tật và rủi ro sức khỏe. Phật đạo dạy chúng ta khởi nguyên tâm từ bi để không còn ham muốn máu thịt của chúng sinh.

Mục đích tối thượng của đạo Phật là không làm điều ác, không làm những việc xâm phạm lương tâm, không gây hại cho người thân và bạn bè. Giác ngộ và giải thoát không chỉ xuất phát từ chế độ ăn chay mà còn từ sự trong sạch của tâm hồn.

Qua những quan điểm xoay quanh Tam Tịnh Nhục, hy vọng mọi người có thể tìm ra hướng đi chính xác trong tu tập. Sự giác ngộ nảy sinh từ những tâm ý toát ra từ những lời dạy của Đức Phật. Đừng quên cập nhật thêm thông tin hữu ích tại bchannel.vn nhé!

46 lượt thích 1 bình luận

Một bình luận cho “Tam Tịnh nhục là gì? Luật và ý nghĩa của Tam Tịnh Nhục”

  1. Add tham khảo bài Kinh sau, theo mình đọc thì Tam Tịnh Nhục là thịt mà : ” Không thấy, Không nghe, Không nghi”

    Trung Bộ Kinh
    Majjhima Nikaya

    55. Kinh Jìvaka
    (Jìvaka sutta)
    Như vầy tôi nghe.

    Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), tại rừng xoài của Jivaka Komarabhacca.

    Rồi Jivaka Komarabhacca đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Jivaka Komarabhacca bạch Thế Tôn:

    — Bạch Thế Tôn, con nghe nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình”. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình”, bạch Thế Tôn, những người ấy có nói chính lời Thế Tôn, họ không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật, họ trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai như pháp, thuyết đúng pháp, thuận pháp không có thể quở trách ?

    — Này Jivaka, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình được làm cho mình”, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi vì mình mà giết. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi vì mình mà giết. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng.

    Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai và này Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia hay con người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Vị Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy, với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?

    — Thưa không, bạch Thế Tôn.

    — Này Jivaka, Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?

    — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng từ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ.

    — Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời Ta đồng ý với Ông.

    — Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.

    — Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng nào hay một thị trấn nào. Vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng bi… với tâm có lòng hỷ… với tâm có lòng xả và an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy, biến mãn với tâm có lòng xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai. Và này Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia, hay con của người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng vị cư sĩ này, hay con vị cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến hại mình, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?

    — Thưa không, bạch Thế Tôn.

    — Này Jivaka, vị Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy, có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?

    — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng xả! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng xả.

    — Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời ta đồng ý với Ông.

    — Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.

    — Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: “Hãy đi và dắt con thú này đến”, đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: “Hãy đi và giết con thú này”, đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.

    Khi nghe nói vậy, Jivaka Komarabhacca bạch Thế Tôn:

    — Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn một cách hợp pháp. Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! … Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

    Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Để lại một bình luận

Tin liên quan

Nội dung của 15 tập trong Tiểu Bộ kinh

Kiến thức 23/12/2024 17:03:28

Các tôn hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Kiến thức 18/12/2024 10:30:13

Chép hồng danh Phật sẽ có công đức lớn

Kiến thức 17/12/2024 19:31:37

Đề Bà Đạt Đa – Vị đại Bồ Tát ứng dụng nghịch hạnh

Kiến thức 17/12/2024 15:24:41

Tôn giả La Đà – Viên mãn hạnh nguyện nhờ siêng năng phụng sự, tinh tấn tu hành

Kiến thức 17/12/2024 14:31:31