Kinh Thủy Sám là gì? Nguồn gốc, ý nghĩa và lợi ích khi tụng
Thủy Sám có ý nghĩa là dùng sức sám hối, giống như dùng nước để rửa sạch mọi vết nhơ. Trong Từ Bi Thủy Sám, các lỗi lầm mà chúng sinh thường mắc phải được liệt kê rõ ràng, kèm theo những hậu quả phải chịu và phương pháp để tránh tội.
Kinh Thủy Sám là gì?
Kinh Thủy Sám là tên tắt của Kinh Từ bi thủy sám pháp, một phương pháp sám hối. “Sám” là viết tắt của sám hối pháp, còn “thủy” là viết tắt của từ bi thủy, nghĩa là nước từ bi.
Kinh Từ Bi Thủy Sám, hay còn gọi là Từ Bi Thủy Sám Pháp, là một bản sám văn nổi tiếng do Ngộ Đạt Quốc Sư biên soạn, gồm ba phần: Thượng, Trung và Hạ. Ngộ Đạt Quốc Sư, qua mười kiếp làm cao tăng tu thiền định, đức hạnh cao tột cùng. Tuy nhiên, do một niệm say mê cho rằng mình tài giỏi, lòng tự đắc dâng cao, Ngài bị túc báo với căn bệnh ghẻ mặt người. Về sau, Ngài được nhà sư khác dùng nước Tam Muội rửa sạch oán nghiệp tiền kiếp và khỏi bệnh.
Ngộ Đạt Quốc Sư cảm kích trước ân huệ, nên đã đặt tên bộ sám văn này theo tên là Thủy Sám Pháp. Ý nghĩa chính của bài sám văn là dùng nước Tam Muội để rửa sạch nghiệp, do đó được gọi là Thủy Sám.
Bản sám văn này, do một vị Thánh Tăng trước tác, có sự linh ứng không thể nghĩ bàn. Nguyện cho tất cả người học Phật trên thế gian, hãy dành chút thời gian để đọc qua một lần. Nếu có thể phát chân tâm sám hối những tội lỗi đã gây ra cho chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, và vì Pháp giới chúng sanh mà ăn chay rồi tụng đọc sám văn này, thì không tội lỗi nào không được tiêu trừ.
Nguồn gốc kinh Thủy Sám
Thiết nghĩ ngoài nhứng Kinh, Luật, Luận của Thánh giáo đã phiên dịch, nhiều sách vở của Hiền nhân chế tác về sau đều do nơi sự cảm ứng mà làm ra cả. Nếu riêng từng phẩm loại mà nói thì không dễ gì kể ra cho hết được. Ngay như bản Kinh văn này mà gọi là Thủy Sám, tôi xin nói rõ đến căn do. Thuở xưa, về triều vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhá sư ở đất Kinh sư trong một ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh ca-ma-la (bệnh cùi) ai cúng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm kích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng:
– Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ. Sau đó, ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ở chùa An Quốc thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân tứ rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức
khôn xiết! Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm. Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy dạng hai cây tùng, ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa, nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật. Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm đau khổ của mình. Nhà sư
ấy nói:
– Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau, một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu lên:
– Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng, đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Tiều Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
– Tôi có đọc.
– Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Tiều Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía Đông oan ức biết dường nào. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao Tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca Nặc Ca Tôn giả lấy nước pháp Tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua, hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết Thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thế, ngài lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là “Chí Đức Thiền Tự”. Có một vị cao Tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng. Khi đó, ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao đời nếu không gặp Thánh nhân thì do đâu khỏi được. Vì cảm niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra Pháp Sám này để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ.
Ba quyển Sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc đó vậy. Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mới đặt tên là Thuỷ Sám. Lại ngài Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca Nặc Ca nên dùng tên ấy mà đặt tên cho bộ sám văn này để đáp cái thâm ân kia.
Nay tôi kể rõ sự thật và nêu công của tiên đức để cho những người khi lật bộ sám văn này, hoặc lễ, hoặc tụng, đều biết được sự tích của tiền Hiền vì lẽ nhân quả tuy nhiều kiếp cũng không sai chạy.
Từ bi là tâm của Phật, mang đến niềm vui và xoa dịu nỗi khổ của đời. Lòng Từ mẫn luôn vì muôn vật, và tâm Bi nguyện khéo độ quần sinh. Thủy là nguồn nước thanh tịnh, tượng trưng cho tâm Phật, là nước Tam Muội, nước Cam Lồ có thể rửa sạch mọi oan khiên, tội lỗi. Nước cũng biểu trưng cho sự uyển chuyển, khéo léo trong giảng pháp, phù hợp với các căn tính khác nhau của chúng sinh.
Nước còn là tâm của Phật tử, nhờ Phật pháp mà trở nên thanh tịnh dần dần. Khi dâng lễ cúng lên bàn thờ Phật, bao giờ cũng có nước. Nước tượng trưng cho lòng từ bi vô biên của Phật, thấm nhuần tình thương khắp mọi nơi.
Mỗi chúng sinh đều phạm nhiều tội lỗi từ thân, miệng, ý sinh ra. Thân phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng phạm tội nói dối, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều. Tâm ý phạm tội tham sân si. Ngay cả việc động chân, động tay giết chết côn trùng cũng là phạm tội. Ta thường cho rằng những tội nhỏ này không đáng kể.
Một lời sám hối, một câu niệm Phật có thể xóa bỏ tội lỗi trong nhiều kiếp. Làm việc thiện cũng là sám hối thiết thực. Ngài Ngộ Đạt trong tiền kiếp đã phạm tội, phạm lỗi. Nhưng từ kiếp sau, ngài không phạm giới nữa và luôn tinh tấn tu tập, trở thành một vị cao tăng đức độ, giữ nghiêm giới luật, đó là công đức lớn. Trong một thời gian dài, ngài đã chăm sóc tận tình cho một nhà sư bị bệnh hủi, cho dù đây không phải là hóa thân của ngài Ca Nặc Ca Tôn giả thì việc làm đó của Ngộ Đạt cũng được công đức lớn.
Ý nghĩa kinh Thủy Sám
Tụng Kinh Thủy Sám có ý nghĩa dùng sức sám hối, cũng ví như lấy nước rửa sạch mọi dơ bẩn. Kinh Thủy Sám kể ra những điều mà chúng sinh thường hay mắc phải gây thành tội lỗi, những tội nào phải chịu quả báo nào và cách thức để sám hối.
Khi tụng Kinh Thủy Sám, nên thành tâm hối lỗi, tất cả những gì đã phạm thề quyết từ nay chừa bỏ, điều thiện gắng làm, điều ác tránh xa. Nhờ đó mà tiêu diệt tội của bản thân, giúp tâm thanh tịnh như nước trong suốt có năng lực rửa tội cả cho người khác nữa. Ai nghe kinh mà cũng hối lỗi và làm việc thiện tức là tránh hết ác nghiệp.
Kinh Thủy Sám liệt kê chi tiết 100 loại tội lỗi thường gặp trong đời sống con người, từ những lỗi lầm nhỏ nhặt đến những tội lỗi nghiêm trọng. Việc sám hối những tội lỗi này giúp hành giả nhận thức được sai lầm của bản thân, từ đó nỗ lực sửa chữa và sống tốt hơn.
Hướng đến giác ngộ:
Tụng kinh Thủy Sám giúp hành giả kết nối với Phật pháp, phát triển trí tuệ và hướng đến giác ngộ.
Giác ngộ là mục đích tối thượng của Phật giáo, là trạng thái hoàn toàn thanh tịnh, giải thoát khỏi mọi khổ đau. Việc tụng kinh Thủy Sám với tâm thanh tịnh, giác tỉnh sẽ giúp hành giả dần dần tiến gần hơn đến giác ngộ.
Lợi ích khi tụng kinh Thủy Sám
Kinh Thủy Sám mang lại nhiều lợi ích cả về mặt tâm linh và đời sống cho người hành trì, cụ thể như sau:
- Sám hối nghiệp lỗi: Kinh Thủy Sám tập trung vào việc sám hối những lỗi lầm đã phạm phải trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Qua đó, giúp hành giả thanh tịnh nghiệp chướng, hướng đến cuộc sống an lạc, thanh thản.
- Hướng đến giác ngộ: Tụng kinh Thủy Sám giúp hành giả kết nối với Phật pháp, phát triển trí tuệ và hướng đến giác ngộ.
- Hướng đến lối sống đạo đức: Giáo lý Phật pháp trong kinh Thủy Sám giúp hành giả hướng đến lối sống đạo đức, thanh cao và yêu thương mọi người.
- Rèn luyện tính kiên nhẫn: Tụng kinh đòi hỏi sự kiên nhẫn và tinh thần tập trung cao độ, giúp hành giả rèn luyện được tính kiên nhẫn trong cuộc sống.
Nghi thức tụng Kinh Thủy Sám
(Mọi người đều chỉnh tề đứng truớc Tam Bảo mật niệm rằng)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Án Lam Sa Ha. (3 lần)
(Chủ sám đọc)
Hết thảy cung kính: Dốc lòng kính lễ mười phương
pháp giới thường trụ Tam bảo. ( 3 lần )
(Mọi người quỳ nguyện hưong)
Nguyện đem lòng thành kính,
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh.
Cầu Phật từ gia hộ ;
Tâm Bồ-đề kiên cố.
Xa bể khổ sông mê.
Chóng quay về bờ giác.
Cúng dường đoạn: Dốc lòng kính lễ mười phương pháp giới thường trụ Tam Bảo. (1 lần) (Mọi người đứng dậy chấp tay tán Phật)
Đấng Pháp vương Vô thuợng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài,
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.
Án phạ nhựt la vật. (3 lần)
Chí tâm đảnh lễ, Tận hư không biến pháp giới quá,
hiện, vị lai, Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường
trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lể, Tây Phương Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà
Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đương Lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Hạnh Phổ Hiền Vưong Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Lực Dại Thế Chí Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Ca Nhã Ca Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Ngộ Đạt Quốc Sư Bồ Tát. (1 lạy)
Con nay xin vì bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sanh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ chí thành sám hối … (1 lạy)
(Cùng quỳ để Sám hối)
Chúng con xin chí thành sám hối
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp.
Đều vì ba nghiệp tham, sân, si.
Bởi thân, miệng, ý phát sanh ra.
Hết thảy con nay xin Sám hối.
Sám hối đoạn: Dốc lòng kính lễ Tam bảo thường ở khắp mười phương (1 lạy)
(Đồng quỳ: Chủ sám thỉnh)
Kính nghe: Lòng từ mẫn hằng vì muôn vật, tâm Bi nguyện khéo độ quần sanh. Hai chữ Từ Bi làm tiêu hết muôn nghìn tội lỗi. Một lời niệm Phật cũng diệt trừ trăm vạn oan khiên. Nguyên nhân làm ra văn Thủy sám này, là do Viên Áng, Tiêu Thố, hai người vì kết thành mối oan khiên, nên nghiệp quả kia khó tránh.
Dưới bóng song tùng, ngài Ca Nhã hiện Phạm thể đoan nghiêm, trong ao Tam muội ngài Ngộ Đạt thoát oan sang (mụn hình mặt người mọc nơi đầu gối), khổ nạn. Từ tâm hướng về thiện niệm, vì thế nên đất hiện suối thơm. Văn Thủy Sám này mở đầu là nguyên do từ đó.
Sở dĩ, một giọt nước thấm nhuần lại là phương thuốc hay thoát khổ, một lời kêu Sám hối thật là đạo tối yếu trừ khiên; khả dĩ đền đáp được bốn ơn sâu; khà dĩ cứu vớt cực khổ nơi ba đường; khả dĩ gỡ mối oan khiên trong nhiều kiếp. Công đức Sám ma ấy, khen ngợi mãi khôn cùng. Hôm nay đàn trang nghiêm tịnh, tiệc pháp kính bày. Quy mạng mười phương Điều ngự, kính lễ Phổ Hiền nguyện vương, vận tưởng hương hoa, một lòng dâng cúng. Muốn cho căn lành trong sạch, trước nên nghiệp chướng tiêu trừ. Cúi mong Đại Từ Bi trông xuống rủ lòng soi xét.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) (Chủ sám và mọi người ngồi, cùng tụng theo nhịp mõ)
TỤNG CHÚ ĐẠI BI
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà-la-ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam Mô a rị đa, Bà lô yết đế thước bác ra da, Bồ đề tát đoả bà da, Ma ha tát đoả bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, Tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da, Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, Tát bà a tha đậu du bằng, A thệ dựng, Tát bà tát đa, na ma bà già, Ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, Ma ha Bồ đề tát đoả, Tát bà tát bà, Ma ra ma ra, Ma hê ma hê rị đà dựng, Cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, Đà ra đà ra, Địa rị ni, Thất Phật ra da, Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt mạ ra, Mục đế lệ, Y hê y hê, Thất na thất na, A ra sâm Phật ra xá lợi , phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô lô hô lô ma ra, Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, Tất rị tất rị, Tô rô tô rô, Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, Na ra cẩn trì, Địa rị sắt ni na. Bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ,ta bà ha .Ma ha tất đà dạ, ta bà ha . Tất đà du nghệ, Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra da, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, Bà lô kiết đế, thuớc bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đà ra, Bạt đà da, ta bà ha.
NAM MÔ LY CẤU ĐỊA BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
(Quỳ đọc bài thỉnh Phật cầu gia hộ)
Kính nghe: Mỗi Đức Phật ra đời mở tám vạn bốn nghìn cửa Pháp. Một mặt trăng cõi thiên, phá tối tăm quần sanh nơi đại địa. Mở rộng đạo mầu nhứt thừa; Sám diệt tội khiên hết thảy.
Kính xin bảy Phật Thế Tôn, mười phương Từ Phụ, hiện tướng hào quang sang suốt, giám soi khẩn chơn thành.
Phụng vì cầu Sám cho đệ tử tên là … Vận sức TỪ BI ĐẠO TRÀNG THỦY SÁM. Đây là quyển thượng, duyên khởi vào đàn, hành nhơn chúng con, quỳ gối chắp tay, kính lễ mười phương Tam Bảo, quy y hết thảy Thánh Tăng, giải tỏ cầu thương, mở bày Sám hối. Trộm nghĩ: Chúng con tên là … Nhứt tánh trái ngang chìm đắm hướng về trong bốn thú, Nhứt chơn mờ mịt loanh quanh ở mãi trong sáu đường. Nghiệp thân, miệng, ý buông lung, vì tham, sân, si phóng túng. Làm càn làm bậy tạo ra nghiệp chướng vô biên, theo ác theo tà gây lấy lỗi lầm nhiều thứ.
Nay nhờ Đức Như Lai mở bày cửa Pháp phương tiện, khiến cho lũ chúng con phát khởi tâm thành Sám hối. Mong nhờ Thánh chúng, mở đọc Sám văn, rửa sạch tội cấu nghìn đời, trừ hết oan khiên nhiều kiếp. Con nguyện được như vậy, xin Phật rủ lòng thương; Ngửa mong đức Đại Từ Bi, vì con mà ngầm giúp.
(Đại chúng ngồi tụng)
Lư hương vừa đốt,
Cõi pháp thơm lây
Chư Phật bốn biển đều xa hay
Thấu tâm thành này
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần)
***
CHƠN NGÔN TỊNH TAM NGHIỆP
Án sa phạ bà phạ truật đà sa phạ đạt mạ sa phạ truật độ hám. (3 lần)
CHƠN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
LỜI PHÁT NGUYỆN
Kính lễ Đức Thế Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát nguyện lớn
Trì tụng hành Sám văn
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ muôn loài
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát tâm Bồ-đề
Tu tập các công đức
Thực hành hạnh lợi tha
Khi hết báo thân này
Đều vãng sanh Cực Lạc.
KỆ KHAI KINH
Chánh pháp sâu xa rất nhiệm mầu!
Trăm nghìn ức kiếp cũng khó gặp,
Con nay thấy nghe xin thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Khải vận đạo tràng Sám Pháp một lòng quy mạng chư Phật trong ba đời.
Nam mô Quá Khứ Tỷ Bà Thi Phật. (1 lạy)
Nam mô Thi Khí Phật. (1 lạy)
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật. (1 lạy)
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật. (1 lạy)
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. (1 lạy)
Nam mô Ca Diếp Phật. (1 lạy)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lạy)
Nam mô Đương Lai Di Lặc Tôn Phật. (1 lạy)
Kinh Thủy Sám là một bộ kinh sám có ý nghĩa sâu sắc, mang lại nhiều lợi ích cho người hành trì. Hãy dành thời gian mỗi ngày để tụng kinh và cảm nhận những lợi ích tuyệt vời mà nó mang lại.
Tin liên quan
Cách chép hồng danh Địa Tạng Vương Bồ Tát: Phát nguyện, hồi hướng
Kiến thức 13/03/2025 01:24:37

Cách chép hồng danh Địa Tạng Vương Bồ Tát: Phát nguyện, hồi hướng
Kiến thức 13-03-2025 01:24:37
Tịnh Nghiệp Tam Phước là gì? Bao gồm gì? Cách tu
Kiến thức 13/03/2025 01:20:33

Tịnh Nghiệp Tam Phước là gì? Bao gồm gì? Cách tu
Kiến thức 13-03-2025 01:20:33
Tìm hiểu Đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát
Kiến thức 13/03/2025 01:15:31

Tìm hiểu Đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát
Kiến thức 13-03-2025 01:15:31
Cách chép hồng danh Phật Dược Sư: Phát nguyện, hồi hướng
Kiến thức 13/03/2025 01:09:13

Cách chép hồng danh Phật Dược Sư: Phát nguyện, hồi hướng
Kiến thức 13-03-2025 01:09:13
Tụng chú Đại Bi có thật sự tiêu trừ được mọi tội lỗi?
Kiến thức 13/03/2025 00:40:54

Tụng chú Đại Bi có thật sự tiêu trừ được mọi tội lỗi?
Kiến thức 13-03-2025 00:40:54