Cách tụng Kinh A Di Đà: Nghi thức, lợi ích và ý nghĩa

21/12/2023 10:02:15 1071 lượt xem

Kinh A Di Đà là một trong 3 bản kinh nổi tiếng, được xem là nền tảng căn bản của giáo lý Tịnh Độ Tông. Kinh khen ngợi công đức và được tất cả chư Phật hộ niệm.

Nghi thức tụng Kinh A Di Đà

Trước khi tụng kinh, Phật tử hãy làm cho thân, khẩu và ý của mình trở nên thanh tịnh. Sám hối là quá trình làm cho ba khía cầu này trở nên trong sáng, một bước quan trọng để tận hưởng phước đức vô lượng khi thực hiện lễ tụng kinh.

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:

Án lam. (7 lần)

TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN:

Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, ta bà ha. (3 lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN:

Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha. (3 lần)

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

cách tụng kinh a di đà tại nhà (6)

NGUYỆN HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương.

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm Bồ Đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ Giác.

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ TAM BẢO

Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) 

Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) 

Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.  (1 lạy) 

TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương xạ nhiệt,

Pháp giới mông huân.

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân.

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê dị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, dị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cần trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha.

Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.

Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

VĂN PHÁT NGUYỆN

Cúi lạy đấng Tam Giới Tôn

Quy mạng cùng mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì Kinh Di Ðà

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ ba đường.

Nguyện cho người thấy nghe

Ðều phát lòng bồ-đề,

Nếu một báo thân này

Sanh qua cõi Cực lạc

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KINH A DI ĐÀ

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần).

PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn…. đại chúng cùng đến dự hội.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.

Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.

Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”. Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thực hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La,… nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.

Tây Phương Giáo Chủ

Tịnh Độ Năng Nhơn

Tứ Thập Bát Nguyện Độ Chúng Sanh

Phát Nguyện Thệ Hoằng Thâm

Thượng Phẩm Thượng Sanh

Đồng Phó Bảo Liên Thành

  1. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Lượng Quang Như Lai
  2. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Biên Quang Như Lai
  3. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Ngại Quang Như Lai
  4. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Đối Quang Như Lai
  5. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Diệm Vương Quang Như Lai
  6. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Thanh Tịnh Quang Như Lai  
  7. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Hoan Hỷ Quang Như Lai
  8. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Trí Tuệ Quang Như Lai
  9. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Nan Tư Quang Như Lai
  10. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Bất Đoạn Quang Như Lai
  11. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Xưng Quang Như Lai
  12. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai

PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI

Đệ tử chúng con từ vô thỉ,

Gây bao tội ác bởi lầm mê,

Đắm trong sanh tử đã bao lần,

Nay đến trước đài vô thượng giác;

Biển trần khổ lâu đời luân lạc,

Với sinh linh vô số điêu tàn,

Sống u hoài trong kiếp lầm than,

Con lạc lõng không nhìn phương hướng,

Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng,

Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng,

Xin hướng về núp bóng từ quang,

Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.

Bao tội khổ trong đường ác trược,

Vì tham, sân, si, mạn gây nên,

Con hôm nay giữ trọn lời nguyền,

Xin sám hối để lòng thanh thoát;

Trí huệ quang minh như nhật nguyệt,

Từ bi vô lượng cứu quần sinh,

Ôi ! Từ lâu ba chốn ngục hình,

Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi,

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,

Nương thuyền từ vượt bể ái hà,

Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa

Hành thập thiện cho đời tươi sáng,

Bỏ việc ác, để đời quang đãng,

Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”.

Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,

Con nguyện được sống đời rộng rãi,

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,

Hình bóng người cứu khổ chúng sanh,

Để theo Ngài trên bước đường lành,

Chúng con khổ, nguyện xin cứu khổ;

Chúng con khổ, nguyện xin tự độ,

Ngoài tham lam, sân hận ngập trời,

Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,

Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc,

Phật A Di Đà thân kim sắc,

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm

Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,

Trong hào quang hóa vô số Phật,

Vô số Bồ tát hiện ở trong,

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,

Quy mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở phương Tây thế giới an lành,

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, đại-từ, đại-bi A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (108 lần)

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (3 lần)

MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH

Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ

Nam-mô a di đà bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.

A di rị đô bà tỳ,

A di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa tì ca lan đế,

A di rị đa, tì ca lan đa,

Dà di nị dà dà na,

Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

HỒI HƯỚNG

Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,

Vô-biên thắng phước giai hồi-hướng,

Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh

Tốc vãng Vô-lượng-Quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,

Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,

Phổ nguyện tội-chướng tất tiêu-trừ,

Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Nguyện sanh Tây-phương tịnh độ trung,

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô-sanh,

Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công-đức

Phổ cập ư nhứt thiết

Ngã đẳng dữ chúng-sanh

Giai cộng thành Phật-đạo.

***

PHỤC NGUYỆN

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật Liên Tòa Chứng Minh.

Phục Nguyện Thượng Chúc Phật Nhật Tăng Huy Pháp Luân Thường Chuyển, Phong Điều Vũ Thuận, Quốc Thới Dân An, Thế Giới Hòa Bình Chúng Sanh An Lạc.

Chúng Con Nguyện Đem Công Đức Này Hồi Hướng Trang Nghiêm Tây Phương Phật Tịnh Độ, Trên Đền Bốn Ơn Nặng, Dưới Cứu Khổ Ba Đường, Xin Hồi Hướng Oan Gia Trái Chủ Trong Nhiều Đời Nhiều Kiếp, Cũng Như Hiện Tại, Hữu Hình Và Vô Hình, Nếu Có Ai Thấy Nghe Đều Phát Tâm Bồ Đề, Hết Một Báo Thân Này Sanh Qua Cõi Cực Lạc.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Phật A Di Đà Thùy Từ Chấn Tích Quang Lâm Phóng Ngọc Hào Quang Gia Hộ Cho Tất Cả Chúng Con Biết Trước Giờ Lâm Chung, Thân Không Tật Bệnh Tâm Không Hôn Mê, Nhất Tâm Niệm Phật. Phật Và Thánh Chúng Tay Cầm Đài Vàng, Tiếp Dẫn Chúng Con Vãng Sanh Về Tây Phương Cực Lạc.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát Thùy Từ Chấn Tích Quang Lâm, Gia Hộ Cho Chúng Con Cùng Tất Cả Chúng Sanh, Thân Tâm Thường An Lạc, Tật Bệnh Tiêu Trừ, Căn Lành Tăng Trưởng, Phước Huệ Trang Nghiêm. Xuân Đa Các Khánh, Hạ Bảo Bình An, Thu Tống Tam Tai, Đông Nghinh Bách Phúc, Một Hậu Đắc Di Đà Thọ Ký.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Phật A Di Đà, Thị Từ Chấn Tích Quang Lâm, Phóng Ngọc Hào Quang, Tiếp Dẫn Chư Hương Linh, Vong Linh, Cửu Huyền Thất Tổ, Thập Nhị Loại Cô Hồn, Ngạ Quỷ Hà Xa, Hữu Vị Vô Danh, Hữu Danh Vô Vị, Nam Nữ Thương Vong Lai Đáo Phật Tiền, Thính Pháp Văn Kinh, Tóc Thoát Mê Đồ Siêu Sanh Tịnh Độ.

Phổ Nguyện Âm Siêu Dương Thới, Pháp Giới Chúng Sanh, Tình Dữ Vô Tình, Đồng Sanh Cực lạc, Đồng Kiến Di Đà, Đồng ngộ Vô Sanh, Đồng Thành Phật Đạo.

TAM TỰ QUY Y

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí-tuệ như hải. (1 lạy)

Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

Nguồn gốc của Kinh A Di Đà

Kinh A Di Đà là một trong ba bản kinh đặc biệt quan trọng của Tịnh độ Tông, xuất hiện trong giai đoạn phát triển của Phật giáo Đại Thừa. Việc dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán được thực hiện bởi Pháp sư Cưu Ma La Thập (344 – 413) trong thời kỳ của Diêu Tần. Ông, người gốc Ấn Độ, cũng là một trong những dịch giả Phật giáo nổi tiếng, chuyên dịch các kinh sách từ tiếng Phạn sang tiếng Hán.

Ngày nay, Phật tử Việt Nam thường tụng bản dịch của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành, được chuyển ngữ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Nguyên bản tiếng Hán được thực hiện bởi Ngài La Thập (như đã đề cập trước đó).

cách tụng kinh a di đà tại nhà

Tiểu bản Sukhàvatì – vyùha là một phần của tập kinh Đại Vô Lượng Thọ (đại phẩm Sukhàvatì – vyùha). Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, giáo lý của Tịnh độ Tông được truyền đạt do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong thời kỳ A Xà Thế, thái tử Vương Xá nổi loạn chống lại vua Tần Bà Sa La, giam cầm cha mình và nhốt hoàng hậu.

Xem thêm: Hướng dẫn cách chép Kinh A Di Đà chi tiết

Hoàng hậu sau đó thỉnh cầu Đức Phật để được hướng dẫn đến một nơi an lành, không gặp khổ đau. Đức Phật hiện thân trước mặt bà, mở ra các cõi Phật độ. Bà đã lựa chọn cõi tịnh độ của Phật A Di Đà và được Đức Thế Tôn chỉ dẫn cách tụng niệm về quốc độ đó để sau khi kết thúc kiếp sống, có thể rèn luyện vào cõi đó.

Trong quá trình giảng dạy, Đức Phật sử dụng giáo pháp riêng, giảng những lời dạy của Phật A Di Đà. Trong kinh, Ngài nói rằng: ‘A Nan, hãy ghi nhớ bài thuyết pháp này và truyền đạt cho đại chúng tại Kỳ Xà Quật. Ta gọi đây là Kinh A Di Đà.’ Có thể nhận thấy rằng, theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, giáo lý trong kinh A Di Đà có nguồn gốc từ giáo lý ban đầu của Đức Phật. Do đó, bản kinh này còn được biết đến với tên gọi khác là Phật Thuyết A Di Đà.

cách tụng kinh a di đà tại nhà (2)

Ý nghĩa Kinh A Di Đà 

Kinh A Di Đà chủ yếu trình bày cuộc đối thoại giữa Phật Thích Ca và Xá Lợi Phật về vùng đất Tây Phương. Nội dung kinh mô tả chi tiết về những hành động mà các Phật tử cần thực hiện để tái sanh ở đó. Có người cho rằng kinh này là tác phẩm của Phật thuyết A Di Đà, không phải của Phật Thích Ca, vì họ tin rằng những lời trong kinh hướng dẫn Phật tử muốn thoát khỏi khổ đau hiện tại và tu tâm để tái sanh tại thế giới Cực Lạc, nơi tràn đầy hạnh phúc.

Tuy nhiên, quan điểm khác nhau cũng tồn tại, khi một số người tin rằng kinh A Di Đà chứa đựng sâu sắc giáo lý và là kết quả của sự giảng dạy của Phật A Di Đà. Ý nghĩa cốt lõi của kinh là khuyến khích sự trang nghiêm và thúc đẩy Phật tử trở về với tinh thần thuần khiết, nơi không có sự phân biệt, giới hạn, sinh tử, mà thay vào đó là bản chất nguyên thủy hay Phật tính.

cách tụng kinh a di đà tại nhà (3)

Khi con người nhận ra Phật tính và hiểu rõ nơi của mình ở Cực Lạc, họ sẽ dễ dàng tưởng tượng về hạnh phúc thông qua những biểu tượng như kim cương, vàng, bạc, và châu báu. Những khái niệm về sự giàu có mà thế gian hiện hữu sẽ trở nên không quan trọng, khiến cho việc tu tập trở nên tự nhiên và tâm hồn trở nên thanh tịnh.

Lợi ích khi tụng Kinh A Di Đà

Tụng kinh niệm Phật (tụng kinh có nghĩa là đọc, Niệm là nhớ) là hoạt động đọc và nhớ tâm, kết hợp giữa lời nói và ý niệm, nhằm thức tỉnh tâm linh và xây dựng một cuộc sống an lạc cho bản thân. Tập Trì Niệm Phật được thực hiện bởi cả người xuất gia và người tại gia, nhằm mục đích thức tỉnh tâm hồn và tạo ra một cuộc sống đúng đắn.

Lợi ích của việc tụng kinh niệm Phật không chỉ là việc chung công đức cho những người đã qua đời, mà còn là biểu hiện của lối sống đạo đức. Nó là một truyền thống lâu dài của tổ tiên, được lưu giữ để tích luỹ đức phước cho con cháu và mang lại hạnh phúc cho tương lai.

cách tụng kinh a di đà tại nhà (4)

Ngoài ra, tụng kinh niệm Phật còn mang đến nhiều lợi ích thiết thực:

  • Giữ cho tâm trí được an lạc, dễ cảm thông với những giá trị thiêng liêng. Việc nhớ niệm giúp hình thành những suy nghĩ tích cực trong tâm hồn.
  • Ôn lại những lời dạy của Đức Phật, làm hướng dẫn cho một cuộc sống theo đúng đạo đức.
  • Giữ cho cơ thể, miệng và tâm hồn trong trạng thái thanh tịnh, trang nghiêm và chính đáng.
  • Cầu an và giải trừ những nghiệp chướng tích từ nhiều kiếp trước, giúp tránh khỏi tai họa và khó khăn trong cuộc sống.
  • Cầu siêu để giúp những linh hồn thoát khỏi cảnh giới u tối và được sanh ra trong thế giới an lạc.
  • Thực hành để thể hiện lòng ăn năn và sám hối, giúp tâm hồn trở nên thanh tịnh và thoát khỏi khổ đau của những lỗi lầm.
  • Phổ biến Pháp Âm, giúp thức tỉnh những người đang chìm đắm trong thế giới vật chất và giúp động viên những người đang trải qua khó khăn.

Do những lợi ích này, những người tín đồ Phật phải thực hành tụng kinh niệm Phật một cách đúng đắn. Trong quá trình thực hiện, họ nên duy trì sự trang nghiêm, tránh xa những yếu tố gây xao lạc tâm hồn, và không nên bị lôi cuốn vào thế giới vô nghĩa của danh lợi và sự thèm khát vật chất. Việc thực hành chỉ nên được thực hiện tại những nơi thanh tịnh như bàn Tam Bảo, trong đạo tràng, hoặc những nơi linh thiêng, tránh xa những nơi có tâm linh không tốt và những hành động mê tín không phù hợp với lời Phật dạy.

cách tụng kinh a di đà tại nhà (5)

Kinh A Di Đà là một trong những bộ kinh quen thuộc trong quá trình tu tập và hành trì của người xuất gia và người tu tại gia đem lại nhiều lợi ích và công đức vô lượng cho người thực hiện. Mong rằng với những chia sẻ trên sẽ giúp ích cho bạn đọc có thêm hiểu biết rõ hơn về bộ kinh này. Đừng quên cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích tại bchannel.vn nhé!

38 lượt thích 0 bình luận

Để lại một bình luận

Tin liên quan

Đức Phật cảm hóa Angulimāla từ kẻ sát nhân thành người tu đạo

Ứng dụng 16/11/2024 10:43:06

Bài văn khấn cúng rằm tháng 10 Giáp Thìn 2024

Phật pháp ứng dụng 14/11/2024 14:42:19

Phật dạy về 10 điều chớ vội tin

Ứng dụng 23/10/2024 13:45:13

Phật dạy về 10 điều chớ vội tin

Ứng dụng 23-10-2024 13:45:13

Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương chính pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chính bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả.
687 lượt xem 0 Bình luận

Kinh Phật là gì? Tổng hợp những loại kinh Phật thường tụng

Ứng dụng 16/10/2024 15:35:43

Kinh cầu an là gì? Bộ kinh cầu an quen thuộc

Ứng dụng 15/10/2024 11:23:12

Kinh cầu an là gì? Bộ kinh cầu an quen thuộc

Ứng dụng 15-10-2024 11:23:12

Kinh cầu an là những bộ kinh được soạn ra nhằm cầu nguyện cho mọi chúng sinh được bình an, hạnh phúc, và tìm thấy sự thanh thản trong cuộc sống, giúp họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong đời.
12705 lượt xem 0 Bình luận