Trí huệ là gì? Công năng và cách rèn luyện trí huệ
Trí huệ được xem mục tiêu mà Phật tử luôn hướng đến và được Đức Phật răn dạy. Để giải thoát khỏi vòng luân hồi và đạt đến cực lạc, con người cần tu tập trí huệ.
Trí huệ là gì?
Trí huệ là sự thấy biết sáng suốt được sinh ra bởi Định Lực. Đây là cảnh giới cao nhất của người học Phật trong tam vô lậu học “Giới, Định, Huệ”.
Trong giáo lý Phật giáo, vô minh được coi là nguồn gốc và con đường dẫn đến mọi khổ đau trong cuộc sống của loài người. Vô minh khiến chúng ta mất khả năng phân định đúng sai, dẫn đến sự mê muội và lầm lạc trong suy nghĩ cũng như hành động.
Trí huệ đơn giản là khả năng suy ngẫm sâu sắc, hiểu biết rõ ràng về sự vật và sự việc, và không bị lừa dối bởi những sai lầm hay hiểu nhầm. Trong kinh Phật, còn được dạy rằng “Trí là khả năng hiểu biết về thế gian và huệ là khả năng hiểu biết về chân lý.
Sự khác biệt giữa trí huệ và thông minh
Thông minh là một năng lực của con người, trong khi trí huệ là cảnh giới của tâm hồn – hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau.
Trên thế giới, người thông minh không phải là đối tượng phổ biến, trong khi người có trí huệ lại càng hiếm, có thể đi cả trăm dặm mà không gặp ai.
Trong cuộc sống hàng ngày, người thông minh thường không muốn chịu thiệt thòi, trong khi người có trí huệ thì coi điều này là điều bình thường.
Người thông minh thường bảo vệ lợi ích cá nhân và tập trung vào bản thân. Ngược lại, người có trí huệ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để thực hiện công việc và đối mặt với thách thức.
Người thông minh biết rõ khả năng của mình và cố gắng khai thác tối đa, trong khi người có trí huệ hiểu rõ giới hạn của bản thân và khi cần, họ sẽ buông bỏ.
Người thông minh tìm kiếm và nắm bắt cơ hội, trong khi người có trí huệ hiểu rõ lúc nào cần buông bỏ. Điều này thể hiện sự khác biệt giữa chớp thời cơ và khả năng xả bỏ.
Người thông minh thích thể hiện tài năng của mình, trong khi người có trí huệ coi trọng vẻ đẹp của người khác.
Người thông minh chú ý đến chi tiết, trong khi người có trí huệ coi trọng bản chất.
Người thông minh có thể gặp nhiều phiền não trong tâm trạng, trong khi người có trí huệ thường thản nhiên và dễ an giấc.
Người thông minh thường muốn thay đổi người khác và kiểm soát tình huống, trong khi người có trí huệ thường thuận theo tự nhiên và duyên số.
Người thông minh thường được sinh ra với tài năng, trong khi người có trí huệ là người luôn tự rèn luyện và phát triển bản thân.
Người thông minh có thể tích lũy tri thức, trong khi người có trí huệ thường dạy người khác về văn hóa và cuộc sống.
2 loại trí huệ
Căn bản trí
Bản chất của trí tuệ là một khía cạnh tinh tế và tuyệt vời mà mỗi con người đều được trang bị sẵn có. Tuy nhiên, do bị những phiền não và rối loạn che phủ, trí tuệ chưa thể phát huy hết sức mạnh của mình. Có thể tưởng tượng trí tuệ cơ bản như một loại kim loại quý (như vàng, bạc), đang ngụ trong tình trạng khoáng chất, lẻo lõm giữa những tảng đá khác (những suy nghĩ phiền não và vô minh).
Như một kho báu nguyên thủy chưa được khai quật, trí tuệ đang chờ đợi để được phát chiếu ra ánh sáng. Đôi khi, chúng ta chỉ cần loại bỏ bụi bẩn, làm sáng bóng bề mặt để khám phá ra khả năng và sức mạnh đích thực của trí tuệ. Mỗi tâm hồn đều giống như một mỏ kim loại quý, và việc loại bỏ những tạp chất, những tưởng tượng và suy nghĩ tiêu cực là cách để trí tuệ tinh khiết được hiện hữu.
Chính những biến tưởng và phiền não làm cho trí tuệ bị mờ mịt, giống như làn bụi trên kim loại quý khiến nó không thể phát sáng. Qua việc xóa bỏ những vướng mắc tâm lý và thức tỉnh trí tuệ, chúng ta có thể trải nghiệm sự tinh khiết và minh diệu của căn bản trí. Hãy để trí tuệ tỏa sáng, như chính tinh khôi của kim loại quý khi nó được tìm thấy và đánh bóng lên ánh sáng.
Hậu đắc trí
Hậu đắc trí là trạng thái trí huệ được đạt được thông qua những phương tiện tu tập như trì giới, thiền định và các phương pháp khác. Có thể so sánh hậu đắc trí như một loại kim loại quý (như vàng, bạc) đã được lọc từ khoáng chất, không còn bị lẫn lộn với đất đá, bụi bặm (tượng trưng cho phiền não và vô minh).
Theo Duy thức học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được “hậu đắc trí”, thì tám thức chuyển thành bốn trí có sức mạnh và ý nghĩa riêng biệt:
- A Lại Da Thức: Trí sáng như một bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn như. Nó có tác dụng chấp trí sanh mạng và chủng tử, và biến thành “Đại viên cảnh trí”.
- Mạt Na Thức: Trí có tác dụng chấp ngã, biến thành “Bình đẳng tánh trí”. Trí có khả năng nhận thức sự bình đẳng và vô ngã của vạn pháp.
- Ý Thức: Trí có tác dụng phân biệt và biến thành “Diệu quan sát trí”. Nó có khả năng quan sát thâm diệu của mọi hiện thực.
- Năm Thức Cuối (Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức): Biến thành “Thành sở tác trí”. Trí có khả năng nhận thức cùng khắp và thần diệu.
Những trạng thái này tượng trưng cho sự hiểu biết sâu sắc và tinh tế của trí huệ sau khi đã được làm sáng tạo và làm sạch từ những yếu tố phiền não và vô minh.
Cách rèn luyện trí huệ
Văn Tư Tu
Văn, Tư, Tu là ba pháp tu quan trọng trong việc phát triển trí huệ:
- Văn Huệ: Đây là huệ do tai nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hoặc qua việc tìm hiểu các kinh điển để hiểu rõ nghĩa lý. Việc này giúp hành giả có kiến thức căn bản về lý thuyết Phật pháp.
- Tư Huệ: Là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi và rõ được nghĩa lý, hiểu sâu sắc về sự thật. Qua việc suy nghĩ và nghiên cứu, hành giả có thể xây dựng kiến thức sâu rộng và sáng tạo.
- Tu Huệ: Là huệ do tu hành, thực hành các thể nghiệm và thể nhập chân lý. Thông qua việc tu hành, hành giả có thể đạt được giác ngộ, chứng ngộ về sự thật. Đây là phần quan trọng nhất vì nó đem lại trải nghiệm trực tiếp và hiểu biết sâu sắc.
Văn, Tư, Tu tương quan mật thiết với nhau theo lời dạy của Phật. Hành giả cần chú trọng vào việc phát triển cả ba khía cạnh này. Nếu người ta chỉ nghe mà không suy nghĩ, tương tự như làm ruộng mà không gieo mạ. Nếu chỉ suy nghĩ mà không tu, giống như làm ruộng mà không tát nước, cày bừa, cuối cùng không đạt được kết quả. Ba huệ được đầy đủ và cân bằng nhau thì mới chứng ngộ được Tam Thừa, như Phật đã dạy trong Sa Di thập giới.
Giới Định Tuệ
Giới, Ðịnh, Huệ là ba yếu tố quan trọng trong con đường tu tâm theo lời dạy của Phật:
- Giới: Đây là lời răn dạy của Phật, như trong Trì Giới Ba La Mật, nói về việc tuân thủ các quy tắc, luật lệ để giữ cho tâm thân không bị ô nhiễm bởi những hành vi đạo đức.
- Ðịnh: Là sự thiền định, giữ cho tâm ý không loạn động, tập trung vào hiểu biết những vấn đề căn bản của Ðạo. Ðịnh giúp tâm trí trở nên tĩnh lặng, dễ dàng nhận biết và hiểu sâu hơn về chân lý.
- Huệ: Là sự phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh. Huệ là kết quả của việc hủy bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, giúp tâm trí trở nên sáng tạo và phát triển.
Giới, Ðịnh, Huệ có mối liên kết mật thiết với nhau. Thân tâm tuân thủ giới sẽ không bị loạn động. Tâm trí Ðịnh sẽ dễ dàng phát triển Trí huệ. Khi Trí huệ phát triển, tâm lại trở nên Ðịnh. Ngược lại, khi tâm Ðịnh, giữ được Trí huệ, thì việc tuân thủ giới cũng trở nên dễ dàng hơn. Tóm lại, Giới, Ðịnh, Huệ đều tương duyên và tương quan chặt chẽ với nhau. Sự tăng lên của một yếu tố cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của hai yếu tố còn lại.
Công năng trí huệ
Như chúng ta đã thấy trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, để có một quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công năng chính của trí huệ như sau:
- Dứt trừ phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn phát sinh nữa.
- Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương ất phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.
- Thể nhập chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
Như vậy, giá trị và công năng của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của người Phật tử. Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được. Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các Ðệ tử phải trau dồi trí huệ như sau: “Trí huệ là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; Là ngọn đèn lớn chói sáng vô minh hắc ám. Là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật. Là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí huệ mình”. (Kinh Di Giáo).
Người trí huệ là người thế nào?
Những ai trí tuệ sẽ tu luyện tâm hồn, kiểm soát và sửa chữa lỗi lầm, giống như quá trình luyện kim loại để tạo ra vàng thuần túy. Chỉ khi không ngừng tu tâm đêm ngày, ta mới đạt được sự giác ngộ.
Phúc đức do chính ta tạo ra, không nên hy vọng vào sự ban phước của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn còn tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, và họ cũng chưa thoát khỏi vòng luân hồi. Khi hết phúc, họ cũng sẽ bị đọa. Thánh Thần còn không thể cứu chính mình, làm sao họ có thể ban phước cho mọi người?
Thánh Thần đã tu luyện rất lâu mới đạt được quả vị cao, nhưng con người lại dâng lễ vật để xin sự ban phước của họ. Lễ vật là do người trần gian dâng lên, Thánh Thần không hưởng thụ những đồ vật này. Chỉ có yêu ma quỷ thần mới hưởng thụ, sử dụng thần thông hạn chế của họ để đánh lừa con người. Vì tâm bị che lấp, con người không nhìn thấy sự thật và bị lừa tưởng họ là Thánh Thần.
Do đó, những người trí huệ cần biết rằng phúc đức là do chính mình tạo ra. Đừng lãng phí kiếp người bằng việc cúng tế lễ và xin sự ban phước của Thánh Thần. Chúng ta phải tự chịu trách nhiệm với duyên nghiệp của mình, không mong cầu Thánh Thần gánh vác hộ.
Chỉ có chính ta mới có thể thay đổi duyên nghiệp của mình. Điều này giống như việc ăn: khi ta ăn, ta no, khi người khác ăn, họ no. Người trí huệ sẽ không cúng tế lễ để xin Thánh Thần, mà sẽ tự tu tập và tự chứng đắc sự giác ngộ. Chúng ta cần tự nắm bắt tâm hồn và không cầu xin, không cúng tế lễ, để tránh lãng phí tài nguyên, thời gian và công sức.
Bài viết trên đây là những thông tin mà Truyền hình Bchannel – BTV9 muốn chia sẻ giúp các bạn hiểu rõ hơn về khái niệm Trí Huệ là gì? Sự khác nhau giữa Bát Nhã, Trí Huệ và Thông Minh. Hy vọng bạn sẽ có thêm những thông tin hữu ích về những khái niệm được Phật Giáo quan tâm qua bài viết vừa chia sẻ. Đừng quên cập nhật thêm nhiều thông tin hay tại bchannel.vn nhé!
Tin liên quan
Bồ Tát cõi địa ngục là ai? Lời thề không thành Phật nếu địa ngục chưa trống không
Kiến thức 21/11/2024 09:53:01
Bồ Tát cõi địa ngục là ai? Lời thề không thành Phật nếu địa ngục chưa trống không
Kiến thức 21-11-2024 09:53:01
Niệm Phật: 30 Lợi ích thay đổi quá khứ, hiện tại và tương lai
Kiến thức 19/11/2024 08:55:45
Niệm Phật: 30 Lợi ích thay đổi quá khứ, hiện tại và tương lai
Kiến thức 19-11-2024 08:55:45
Hoàng Thần Tài là ai?
Kiến thức 16/11/2024 09:21:17
Hoàng Thần Tài là ai?
Kiến thức 16-11-2024 09:21:17
37 phẩm trợ đạo trong Phật giáo bao gồm những gì?
Kiến thức 15/11/2024 09:09:57
37 phẩm trợ đạo trong Phật giáo bao gồm những gì?
Kiến thức 15-11-2024 09:09:57
Chí tâm đảnh lễ và 6 bước đảnh lễ Phật – Tam Bảo
Kiến thức 12/11/2024 08:47:49
Chí tâm đảnh lễ và 6 bước đảnh lễ Phật – Tam Bảo
Kiến thức 12-11-2024 08:47:49
30 lượt thích 0 bình luận