Nghi thức tụng kinh cầu an đầu năm chuẩn

23/01/2025 11:11:04 313 lượt xem

Tụng niệm là hành động đọc và nhớ lời Phật dạy, là sự kết hợp giữa miệng và tâm để tạo nên một sự tập trung sâu sắc vào lời kinh, giúp thanh lọc tâm hồn và hướng con người đến những giá trị đạo đức, tinh thần.

Nghi thức tụng kinh cầu an

PHẨM PHỔ MÔN

(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:

Án lam tóa ha. (3 lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương).

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại-bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

CHÚ ÐẠI-BI

Nam-mô Ðại-bi hội thượng Phật Bồ-tát. (3lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế thước bác ra da, bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đát đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ, bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Bà đà ma yết tất đà dạ, ta ba ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.(3 lần)

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Nam Mô Pháp Hoa hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm

Bấy giờ Bồ Tát Vô Tận Ý, liền từ toà ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải, chắp tay hướng về Ðức Phật, mà bạch rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì mà được tên là Quán Thế Âm ? Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh thọ các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì lập tức Bồ Tát quán sát âm thanh đó, mà được giải thoát.

Nếu có  người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa lớn, lửa không thể cháy được, vì do sức oai thần của Bồ Tát đó. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, liền được vào chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì tìm cầu : vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách,  trân chân, các thứ báu, vào trong biển lớn. Giả sử có gió bão thổi thuyền của họ trôi dạt vào nước quỷ La Sát, trong đó nếu có một người, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì những người kia đều được thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhơn duyên đó mà có tên là Quán Thế Âm.

Nếu lại có người, trong lúc bị hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đao gậy của kẻ kia cầm, liền gãy ra từng đoạn mà được giải thoát.

Nếu trong ba ngàn đại thiên cõi thế giới, đầy dẫy quỷ Dạ Xoa, La Sát, muốn đến làm hại người, nghe họ xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các ác quỷ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn họ, huống chi lại làm hại. Nếu lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm xiềng xích, trói buộc thân họ, mà xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đều đứt gãy, liền được giải thoát.

Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy kẻ oán tặc. Có người chủ buôn bán, dắt theo những người đi buôn, mang theo nhiều châu báu, đi qua con đường hiểm, trong đó có một người, xướng lên rằng : “Các thiện nam tử ! đừng có sợ hãi, các ông phải một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát đó hay đem sự không sợ hãi bố thí cho chúng sinh. Nếu các ông xưng niệm danh hiệu Ngài, thì sẽ thoát khỏi oán tặc nầy. Các người đi buôn nghe rồi liền xưng niệm : Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, do xưng niệm danh hiệu Ngài, mà được giải thoát”.

Vô Tận Ý ! Ðại Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần rộng lớn như thế.

Nếu có chúng sinh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, liền lìa được lòng dục. Nếu nhiều sân hận, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, liền lìa được lòng sân hận. Nếu nhiều ngu si, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, liền lìa được ngu si.

Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sinh phải thường xưng niệm.

Nếu có người nữ, hoặc muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, liền sinh được con trai phúc đức, trí huệ ; hoặc muốn cầu con gái, liền sinh được con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc công đức, được mọi người kính mến.

Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có oai lực như thế.

Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước đức chẳng luống mất, cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý ! Nếu có người thọ trì danh hiệu các Bồ Tát nhiều như sáu mười hai ức số cát sông Hằng, lại suốt đời cúng dường : thức ăn uống, y phục, toạ cụ, thuốc men. Ý ông nghĩ sao ? Người thiện nam, người thiện nữ đó, được công đức có nhiều chăng ? Vô Tận Ý thưa : Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Phật nói : Nếu lại có người, thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho đến một thời lễ lạy cúng dường, thì hai người đó được phước đức bằng nhau không khác, trong trăm vạn ức kiếp không thể hết được. Vô Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, được vô lượng vô biên phước đức như thế.

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào ? Vì chúng sinh thuyết pháp như thế nào ? Sức phương tiện của Ngài như thế nào ?

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh trong cõi nước, đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Thanh Văn độ được, liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Phạm Vương độ được, liền hiện thân Phạm Vương, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Ðế Thích độ được, liền hiện thân Ðế Thích, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trời Tự Tại độ được, liền hiện thân trời Tự Tại, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trời Ðại Tự Tại độ được, liền hiện thân trời Ðại Tự Tại, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân độ được, liền hiện thân trời Thiên Ðại Tướng Quân, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, liền hiện thân Tỳ Sa Môn, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân ông vua nhỏ độ được, liền hiện thân ông vua nhỏ, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trưởng giả độ được, liền hiện thân trưởng giả, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân cư sĩ độ được, liền hiện thân cư sĩ, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân tể quan độ được, liền hiện thân tể quan, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Bà La Môn độ được, liền hiện thân Bà La Môn, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ độ được, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn độ được, liền hiện thân phụ nữ, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân đồng nam, thân đồng nữ độ được, liền hiện thân đồng nam, thân đồng nữ, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người độ được, liền hiện những thân đó, để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Thần Chấp Kim Cang độ được, liền hiện thân Thần Chấp Kim Cang, để vì họ nói pháp.

Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm đó thành tựu công đức như thế, dùng đủ thứ thân hình dạo khắp các cõi nước, độ thoát chúng sinh. Cho nên các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðại Bồ Tát Quán Thế Âm đó, ở trong sự sợ hãi, tai nạn cấp bách, hay ban cho sự không sợ hãi, cho nên trong thế giới Ta Bà nầy, đều gọi Ngài là bậc bố thí không sợ hãi.

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, dâng lên bố thí, mà nói rằng : “Xin Ngài hãy nhận chuỗi ngọc châu báu bố thí pháp nầy”. Lúc đó Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.

Vô Tận Ý lại bạch với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng : “Xin Ngài, hãy vì thương chúng tôi, mà nhận chuỗi nầy”.

Bấy giờ, Ðức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm : Hãy thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, mà nhận chuỗi đó. Lập tức Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót bốn chúng và trời, rồng, người, chẳng phải người, mà nhận chuỗi ngọc đó, chia làm hai phần : Một phần dâng lên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng lên tháp của Phật Ða Bảo.

Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần thông tự tại như thế, dạo đi nơi thế giới Ta Bà.

Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi rằng :

Thế Tôn đủ tướng tốt

Nay con lại hỏi kia

Phật tử nhân duyên gì ?

Tên là Quán Thế Âm !

Ðấng đầy đủ tướng tốt

Ðáp kệ Vô Tận Ý :

Ông nghe hạnh Quán Âm

Khéo ứng các nơi chỗ.

Nguyện lớn sâu như biển

Nhiều kiếp không nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn ức Phật

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

Ta vì ông lược nói :

Nghe danh và thấy thân

Tâm niệm không luống qua

Hay diệt khổ các cõi.

Giả sử sinh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Nhờ sức niệm Quán Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỷ, cá, rồng

Nhờ sức niệm Quán Âm

Sóng không dìm chết được.

Hoặc trên đỉnh Tu Di

Bị người xô rớt xuống

Nhờ sức niệm Quán Âm

Như mặt trời trên không.

Hoặc bị kẻ ác rượt

Rớt xuống núi Kim Cang

Nhờ sức niệm Quán Âm

Không tổn hại mảy lông.

Hoặc bị giặc oán nhiễu

Ðều cầm đao làm hại

Nhờ sức niệm Quán Âm

Họ đều khởi tâm từ.

Hoặc gặp nạn khổ vua

Muốn hành hình sắp chết

Nhờ sức niệm Quán Âm

Ðao hãy ra từng đoạn.

Hoặc bỏ tù xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Nhờ sức niệm Quán Âm

Tháo mở được giải thoát.

Chú tà các thuốc độc

Muốn làm hại đến thân

Nhờ sức niệm Quán Âm

Trở về người muốn hại.

Hoặc gặp La Sát dữ

Rồng độc các loài quỷ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Thời không thể hại được.

Nếu thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Liền bỏ chạy khắp nơi.

Rắn độc và bò cạp

Khí độc khói lửa đốt

Nhờ sức niệm Quán Âm

Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm sét điện chớp

Tuông xuống trận mưa lớn

Nhờ sức niệm Quán Âm

Tức thời được tiêu tan.

Chúng sinh bị tai ách

Vô lượng khổ bức thân

Sức diệu trí Quán Âm

Hay cứu khổ thế gian.

Ðầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Mười phương các cõi nước

Không cõi nào chẳng hiện.

Ðủ thứ các thú dữ

Ðịa ngục quỷ súc sinh

Khổ sinh già bệnh chết

Dần dần đều diệt hết.

Quán thật, quán thanh tịnh

Quán trí huệ rộng lớn

Quán bi và quán từ

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Quang thanh tịnh không nhơ

Mặt trời huệ phá tối

Hàng phục nạn gió lửa

Chiếu sáng khắp thế gian.

Thể bi răn như sấm

Ý từ diệu mây lớn

Rưới mưa pháp cam lồ

Trừ diệt lửa phiền não.

Tranh tụng nơi cửa quan

Sợ hãi trong quân trận

Nhờ sức niệm Quán Âm

Các oán đều lui tan.

Quán Thế Âm, tiếng diệu

Tiếng phạm, tiếng hải triều

Thắng hơn tiếng thế gian

Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sinh nghi

Quán Âm bậc tịnh Thánh

Nơi khổ não chết chóc

Hay làm chỗ nương tựa.

Ðủ tất cả công đức

Mắt từ trông chúng sinh

Biển phước tụ vô lượng

Cho nên phải đảnh lễ.

Bấy giờ, Bồ Tát Trì Ðịa, liền từ toà đứng dậy đến trước Ðức Phật bạch rằng : Ðức Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh nghe phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm nầy, thị hiện sức thần thông, nghiệp tự tại, nên biết người đó công đức  không ít.

Khi Ðức Phật nói phẩm Phổ Môn nầy, thì trong chúng có tám vạn bốn ngàn chúng sinh, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Chân ngôn viết :

Án đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

Lục tự đại minh chơn ngôn

Án ma ni bát di hồng (7 lần)

Nam Mô linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần).

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh.

Bồ Tát Quán Tự Tại, hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Ða thì, thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.

Xá Lợi Tử! Các pháp đó không tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới ; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết ; không có khổ tập diệt đạo, không có trí huệ cũng không đắc được.

Vì không chỗ đắc, nên Bồ Tát nương vào Bát Nhã Ba La Mật, tâm không quái ngại, vì không quái ngại, nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đạt đến Niết Bàn. Các Ðức Phật ba đời, đều nương vào Bát Nhã Ba La Mật, cho nên đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Ða là Chú đại thần, là Chú đại minh, là Chú vô thượng, là Chú vô đẳng đẳng, trừ được tất cả khổ, chân thật không hư.

Cho nên nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, bèn nói Chú rằng : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)

Quán Âm Ðại Sĩ

Tích hiệu viên thông

Thập nhị đại nguyện thệ

hoằng thâm

Khổ hải độ mê tân

Cứu khổ tầm thinh

Vô sát bất hiện thân

Nam Mô viên thông giáo chủ đại từ đại bi, tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (108 lần)

Nam Mô Vô Tận Ý Bồ Tát (3 lần)

Nam Mô Trì Ðịa Bồ Tát (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần).

CÚNG NGỌ

(Nếu tụng vào giờ khác thì bỏ phần nầy tụng tiếp theo Hồi Hướng)

Cúng dường

Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật

Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật

Thiên Bách Ức Hoá Thân Thích Ca Mâu Ni Phật

Cực Lạc Thế Giới A Di Ðà Phật

Ðương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật

Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật

Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát

Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Ba đức sáu vị

Cúng Phật và Tăng

Pháp giới hữu tình

Thảy đều cúng dường.

Biến thực chân ngôn

Nam Mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần)

Cam Lồ Thuỷ Chân Ngôn

Nam Mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)

Hương vị cơm ngon nầy

Trên cúng mười phương Phật

Và dâng các Hiền Thánh

Cùng chúng sinh sáu đường

Bố thí không phân biệt

Theo nguyện đều no đủ

Nay khiến người bố thí

Ðược vô lượng Ba La Mật

Ba đức cùng sáu vị

Cúng Phật và chư Tăng

Pháp giới loài hữu tình

Thảy đều đồng cúng dường.

Phổ cúng dường chân ngôn

Án nga nga nẳng, tam bà phạ, phiệt nhật ra hồng. (3 lần)

Nam Mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

TAM QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

nghi thức tụng kinh cầu an

Ý nghĩa và cách tụng niệm

Tụng niệm là hành động đọc và nhớ lời Phật dạy, là sự kết hợp giữa miệng và tâm để tạo nên một sự tập trung sâu sắc vào lời kinh, giúp thanh lọc tâm hồn và hướng con người đến những giá trị đạo đức, tinh thần. Việc tụng niệm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, bao gồm:

  1. Giữ tâm hồn trong sạch: Tụng niệm giúp tâm hồn được thư thái, trong sáng và kết nối với những giá trị tinh thần cao quý. Nó cũng là cách thức huân tập tâm thức, làm cho chúng ta dễ dàng tiếp nhận những điều thiện lành.
  2. Ôn lại lời Phật dạy: Tụng niệm là phương pháp để nhớ lại những lời dạy của Đức Phật, qua đó làm nền tảng cho cuộc sống hàng ngày và giúp thấm nhuần giáo lý, phát triển trí tuệ và lòng từ bi.
  3. Kiềm chế thân và khẩu: Việc tụng niệm giúp chúng ta kiềm chế hành động và lời nói, hướng đến những việc làm và lời nói trong khuôn khổ thanh tịnh, chính đáng, đồng thời loại bỏ những thói quen tiêu cực, dục vọng không tốt.
  4. Cầu an và giảm nghiệp chướng: Tụng niệm giúp cầu an, tịnh hóa tâm hồn và giảm trừ những nghiệp chướng, từ đó tránh khỏi những tai ương, khó khăn do những hành động sai lầm trong quá khứ.
  5. Cầu siêu cho người đã khuất: Việc tụng niệm cũng có thể hướng tâm hướng thiện cho người đã mất, giúp họ chuyển hóa tâm niệm và vươn đến những cảnh giới cao quý, an lành.
  6. Lan tỏa tiếng Phật pháp: Những lời kinh tụng có thể làm âm thanh của Phật pháp lan rộng trong cộng đồng, cảm hóa và khuyến khích mọi người hướng về chính đạo, xa lánh điều xấu.
  7. Kích thích lòng hướng thiện: Tụng niệm giúp nhắc nhở bản thân và những người xung quanh về tầm quan trọng của việc làm thiện và học hỏi, hướng đến những giá trị cao đẹp trong cuộc sống.
  8. Tỏ lòng từ bi và cầu cho chúng sinh: Thông qua tụng niệm, chúng ta cũng cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được sống trong hòa bình, hạnh phúc và an lành.
  9. Sám hối tội lỗi: Tụng niệm còn là hành động thể hiện sự ăn năn, sám hối những sai lầm trước Tam Bảo, giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và xóa bỏ những tội lỗi đã gây ra.

Khi tụng niệm, người hành lễ cần chú trọng giữ không khí trang nghiêm, thực hiện trong không gian thanh tịnh như trước bàn thờ Phật hoặc trong các đạo tràng, tránh xa những nơi không phù hợp như nơi thờ thần linh khác, không tham gia vào các nghi lễ không phù hợp với Phật pháp. Tụng niệm cần được thực hiện một cách nghiêm túc, tránh những yếu tố làm xao lãng hoặc gây xáo trộn, luôn hướng tới sự trong sáng và chân thành.

nghi thức tụng kinh cầu an (2)

Lời khuyên trước khi tụng Kinh

Để tụng kinh hiệu quả và đúng đắn, các Phật tử cần chú ý thực hiện những bước sau:

  1. Chuẩn bị tâm hồn thanh tịnh: Trước khi bắt đầu tụng kinh, Phật tử cần tự làm sạch tâm hồn, tập trung vào sự thanh thản, tránh những suy nghĩ lo âu và tiêu cực.
  2. Lễ Phật: Thắp ba nén hương và thực hiện ba lạy kính lễ Đức Phật, thể hiện lòng thành kính và tôn trọng.
  3. An tọa và bắt đầu tụng: Sau khi an tọa, chắp tay, hướng về Đức Phật và bắt đầu trì tụng. Trong quá trình tụng, tập trung vào việc ghi nhớ và hiểu rõ lời Phật dạy.
  4. Tham khảo mục lục: Nếu muốn tụng một bài kinh cụ thể, hãy tham khảo mục lục ở trang đầu hoặc cuối để biết rõ về phần cần tụng.
  5. Lúc tụng kinh: Đọc chậm rãi, điều hòa và rõ ràng. Tránh thay đổi âm điệu quá mức, vì việc này có thể làm sai lệch ý nghĩa của bài kinh. Tụng kinh phải thực hiện với tâm thành, để có thể thấu hiểu và hành theo những lời dạy của Phật.
  6. Kết thúc mỗi đoạn tụng: Sau khi tụng xong một đoạn có chữ “O”, có thể đánh chuông một tiếng và thực hiện một lạy để tôn kính và ghi nhớ lời Phật dạy.
  7. Thực hành linh hoạt: Tùy vào thời gian và hoàn cảnh, Phật tử có thể điều chỉnh số lượng tụng, nhưng vẫn phải duy trì sự trang nghiêm và tinh thần đúng đắn.
  8. Thực hành định kỳ: Mỗi đêm, Phật tử nên thực hành tụng kinh tại nhà hoặc tại tịnh xá. Đặc biệt vào các ngày hội trong tháng như mùng 8, rằm, 23 và 30 (hoặc 29 nếu tháng thiếu), Phật tử nên tham gia lễ cúng hội, sám hối và nghe giảng kinh để nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển đạo đức.
  9. Lợi ích của việc tụng kinh: Kinh Phật dễ hiểu và phù hợp với tất cả các Phật tử. Người siêng năng trì tụng sẽ dần dần mở mang trí tuệ, nâng cao đạo hạnh, từ đó lợi lạc cho thân tâm, giúp người hành giả tu hành tinh tấn hơn.

nghi thức tụng kinh cầu an (3)

Việc tụng kinh không chỉ là hành động bề ngoài mà còn là sự rèn luyện tâm hồn, giúp Phật tử hướng thiện, mở rộng trí tuệ và sống cuộc đời đạo đức, bình an.

6 lượt thích 0 bình luận

Để lại một bình luận

Tin liên quan

Văn khấn nguyện Phật Dược Sư cầu an, tiêu trừ bệnh tật

Sự kiện 23/01/2025 11:17:10

Bài tụng kinh cầu an tại nhà: Tụng Kinh gì? Ý nghĩa

Sự kiện 23/01/2025 11:05:17

Bài tụng kinh cầu an tại nhà: Tụng Kinh gì? Ý nghĩa

Sự kiện 23-01-2025 11:05:17

Tụng kinh cầu an tại nhà là nghi thức giúp gia đình cầu mong bình an, sức khỏe và hạnh phúc. Qua việc tụng kinh, gia đình thể hiện lòng kính trọng với Phật và tổ tiên, tạo không gian bình yên và thanh tịnh.
95 lượt xem 0 Bình luận

Tụng kinh ngày 23 tháng chạp: Tụng Kinh gì? Hướng dẫn, nghi thức

Tết An Viên 20/01/2025 17:00:55

Tụng kinh ngày 23 tháng chạp: Tụng Kinh gì? Hướng dẫn, nghi thức

Tết An Viên 20-01-2025 17:00:55

Ngày 23 tháng Chạp hàng năm là ngày cúng ông Công ông Táo về trời. Bên cạnh việc chuẩn bị lễ vật cúng bái, nhiều gia đình còn lựa chọn tụng kinh như một hình thức thể hiện lòng thành kính và cầu mong bình an cho gia đạo. Vậy ngày 23 tháng Chạp tụng kinh gì? Bài viết này sẽ hướng dẫn chi tiết cách tụng kinh ngày 23 tháng Chạp chuẩn, bao gồm cả nghi thức và ý nghĩa của việc làm này.
84 lượt xem 0 Bình luận

Cách cúng giao thừa ở chung cư: Đồ lễ, lưu ý, ý nghĩa

Tết An Viên 18/01/2025 18:07:01

Nghi thức cúng giao thừa Phật Giáo đầy đủ 2025

Tết An Viên 18/01/2025 17:55:26

Nghi thức cúng giao thừa Phật Giáo đầy đủ 2025

Tết An Viên 18-01-2025 17:55:26

Giao thừa là thời khắc tiễn biệt năm cũ và đón chào năm mới, khi mọi phiền toái của năm qua được xóa bỏ, mở ra cơ hội mới cho hạnh phúc và thành công. Đây là một khoảnh khắc quan trọng, đánh dấu sự chuyển giao của thời gian.
70 lượt xem 0 Bình luận